Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

MƯA " LỲ " - NGUYỄN Y ANH

Có thể mưa,
chỉ tạt ngang Huế,
rồi đi...

Có thể dòng Hương,
xanh ngan ngát
giữ chân mưa ở lại
rả rích đùa

Có thể em,
mềm như cỏ,
mỏng manh áo lụa
nũng nịu chiều bàng bạc gió đông
quýnh quáng, mưa đan mành thương nhớ
bướng bỉnh
cuộn vào em,
dấm dẳng chẳng muốn rời

23.12.2011
NGUYỄN Y ANH

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

MÙA XUÂN ĐI THĂM NGƯỜI TÌNH CŨ - TRẦN DZẠ LỮ




Chạm nhau rồi lại ngậm ngùi
Bốn mươi năm chẳn anh rời xa em…
Thời gian là mũi tên đen
Bắn vào em, bắn vào em nỗi buồn!
Anh bay trong cõi vô thường
Lời yêu ngậm ngải-mộng trườn…ngoài khuya!
Chạm nhau rồi lại …thầm thì
Thôi em ở lại, ráng ghì …nhớ thương!
Có duyên, không nợ, nên còn
Khung trời kỷ niệm ăn mòn tháng năm…
Chạm nhau rồi lại… âm thầm
Anh về xa xót,em nằm chiêm bao…
Cảm ơn đất cũ, trời cao
Còn thương một dải lụa đào phất phơ!

Trần Dzạ Lữ
( Trúc Giang, mồng 6 tháng giêng Nhâm Thìn,2012)

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

TRƯỚC SAU ĐỀU CỦA RIÊNG MÌNH - NGUYỄN LƯƠNG VỴ




Thi sĩ Võ Chân Cửu tự bạch, anh mần thơ từ khi còn tuổi thiếu niên. Mần thơ từ rất sớm, nhưng sức thơ lại vượt xa cái tuổi của mình, mà thơ lại hay, thơ thứ thiệt nữa thì thật là hiếm và quý.
Võ Chân Cửu in tập thơ đầu tay,Tinh Sương, năm 1972, cách nay gần 40 năm, lúc ấy, thi sĩ cũng vừa tròn 20 tuổi. Gần 40 năm sau, ngồi đọc lại Tinh Sương, tôi vẫn còn niềm rung cảm, xúc động mạnh như thuở nào.

Tinh Sương đúng như tên gọi, một giòng thơ lung linh, trong veo trong vắt, nhất khí từ bài đầu đến bài cuối. Âm vang có một chút gì đó hiu hắt, lành lạnh, trầm trầm. Sắc màu có một chút gì đó vừa ảo diệu , vừa mênh mông. Chữ trong mạch thơ của thi sĩ hình như cố ghìm lại những tiếng nấc thảng thốt của buổi đầu đời, khi bắt đầu cảm nhận được cái cô liêu, côi cút, bơ vơ của kiếp người.
Tinh Sương, tuy với số lượng thơ chắt lọc, 25 bài (phần lớn là thơ bốn chữ [6 bài,] thơ năm chữ [12 bài;] còn lại là thơ sáu chữ [4 bài,] thơ bảy chữ [1 bài,] thơ song thất lục bát [1 bài] và một tiểu trường ca Quẩy Đá Qua Đồng, viết theo lối bài hành cổ phong với phần mở đầu và phần khép lại bằng thơ lục bát,) nhưng về phần thi pháp, Võ Chân Cửu đã chứng tỏ được một bản lĩnh vững vàng, tầm cỡ ngay từ thời tuổi trẻ

Nàng đội nón cời
Đi về phương bắc
Thẳng đứng mặt trời
Soi không thấy mặt
(Vô Tình)

Nhịp hai, bốn chữ, bốn câu. Hình ảnh, tứ thơ rất lạ. Nàng nào vậy? Nàng Thơ? Nón cời? Soi không thấy mặt. Bốn câu mở đầu của tập thơ, tỉnh rụi, lạnh lùng quá đỗi. Câu cuối hun hút bóng hình, buông xuống một âm trắc dứt điểm nghèn nghẹn, thảng thốt. Vô Tình ư? Không hẳn. Nàng Thơ thách thức thi sĩ đó thôi! Thi sĩ lập tức hồi đáp:

Trăm năm bá láp
Nghìn năm điêu tàn
Đi về Tịch Hạp
Soi bóng trăng ngàn
(Soi Bóng)

Vỡ lẽ ra, Soi Bóng trong cõi Tịch Hạp thì sẽ thấy rõ mặt nhau.
Bóng trăng ngàn chỉ là biểu tượng thôi. Tâm thức của thi sĩ tự soi lấy cái bóng “kép” của mình. Cõi Tịch Hạp là mái nhà xưa, cái chốn ban sơ của âm và sắc, cái chốn hỗn mang thiên địa mịt mù. Khởi kỳ thủy là Lời hay là Âm? Hỡi Nàng Thơ huyền ảo kia! Vậy nên:

Sớm về phía mây tụ
Chiều tới nơi mây tan
Phải nơi nầy chốn cũ
Trên mặt đất còn hoang
Trời rộng đau gió hú
Ôi hư không tràn lan
(Một Ngày Bộ Hành)

Thi sĩ cứ bước đi, bước đi. Nhịp một nhịp hai nhịp ba trùng trùng duyên khởi. Cái bóng của thiền sư Không Lộ ở đâu đây? Trường khiếu nhất thanh hàn Thái Hư – Hú dài một tiếng lạnh cả cõi Hư Không. Thi sĩ chắc là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cái chốn cũ là cái chốn nào trong tiền kiếp phôi pha? Câu hỏi vu vơ hoang địa, tịch mịch vọng lời đáp. Đúng rồi:

Tuổi mười tám đôi mươi đắm mình dạo chơi trong cõi tịch mịch của buổi tà huy, nhìn thấy và lắng nghe, không kịp gọi thì bóng tà bay cái vụt. Nhạy cảm trong từng cái thấy cái nghe, hạt bụi cũng có linh hồn, cũng có dáng dấp sinh linh ngoa ngoe quẫy đạp. Là ta đấy ư? Là em đấy ư? Lời chưa kịp gọi, cái vụt của chớp nháy không gian thời gian kia đã chia biệt rồi!

Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lũi
Trên trần gian tiêu điều.

Tứ thơ thản nhiên, lạ lẫm, pha chút ngông cuồng của tuổi trẻ. Không hề gì! Cô liêu và cô độc quá thôi! Vô núi là vô cái cõi tịch mịch sấm rền. Thi sĩ chỉ biết:

Vô núi nghe núi rền
Tự hỏi rồi tự đáp
Về ù tai cả đêm
Canh tà chỉ buồn ngáp.
(Thâu Đêm)

Bài ngũ ngôn tứ tuyệt hình như có tiếng đồng vọng của Trúc Lâm Yên Tử? Trong sấm sét rền vang của tịch mịch, thi sĩ hốt nhiên vỡ lẽ ra,tự hỏi rồi tự đáp
Tự đáp rồi thì ù tai cả đêm. Buồn ngáp là để hóa giải cái hay là niêm hoa vi tiếu sau cái buồn ngáp ấy? Bài thơ hay là bài kệ? Chẳng biết nữa. Thi sĩ hay thiền sư? Lại càng chẳng biết luôn. Chỉ biết rằng: Thi sĩ đã sớm chạm vào cõi vô ngôn kỳ bí nhất của kiếp người. Vô ngôn đâu hẵn là không lời! Xin mời bạn đọc chậm rãi và tưởng tượng thêm tiếng mõ cầm canh hòa điệu

Chùa cổ bên sông
Mưa lồng chính điện
Mưa dìu mái cong
Về thăm năm cũ
Rã chút hương tàn
Trên bia mộ hoang
Trên cành đa phế
Hồn đựng bình vôi
Và trong ngẫu tượng
Than đất than đá
Than cỏ than cây
Cùng con dế nhỏ
Gáy suốt đêm dài
Gáy suốt mười năm
Chết vùi dưới rễ
Còn mãi kêu em
Bên kia bờ sậy
Sông là nắng mai
Ủ lòng em nhạt
Gáy suốt mười năm
Nở hoa bát ngát
Em đeo trong tim
Em cài lên ngực
Một mai hết rồi
Em biết còn ai
Gọi vầng trăng đục
Chở tình lên mây
Mây tan mây hợp
Mây trắng đầy trời
Tan nát nửa đêm
Xoáy theo tiếng mõ
Vọng từ muôn xưa
Hiện con bướm nhỏ
Đậu bâu áo phai
Ru trong nắng tịnh
Nước mắt như mưa
Cuốn hai bờ mắt
Mắt khép một bờ
Em thấy trăm năm
Một tiếng chuông đồng
Em thấy nghìn năm
Một câu chiêu niệm
Em nhìn vạn kỷ
Một vùng như sương
Chùa cổ bên sông
Mưa mưa không cùng
Mưa mưa kỳ cựu
Những ngày nước dâng
Mưa êm nhập định
Từng mảnh rêu phong
Anh quên kinh kệ
Ra chảy với sông
Tìm em vạn ngã
Bạc áo nâu sồng
Kiệt trên đời cũ
Ơi em vô hình
Một đời bay vụt
Hỏi em bóng dáng
Sông nước chập chùng
Nước xô thiên địa
Chùa cổ bên sông
(Chùa Cổ Bên Sông)

Theo tôi, đây là bài thơ xuất thần nhập thánh nhất trong Tinh Sương. Thi sĩ viết như nhập đồng, chảy trôi một mạch như khúc đồng dao, nhịp theo tiếng mõ thánh thót như những giọt sương trời, vang vang, lắng lắng. Chùa cổ, sông, là biểu tượng đầy ẩn dụ, động và tĩnh, xa và gần, mộng và thực, dìu dặt âm vang, quyện vào nhau trong tiết điệu lung linh, chập chùng, trùng điệp. Bài thơ có thể tụng với nhịp ngân nga trầm bổng, có thể hát lên một mình trong đêm thanh vắng. Tụng hay hát, nhả giọng khoan thai từng chữ, câu chuyện kể sẽ ánh lên một âm vang và sắc màu vừa thực vừa mộng. Tụng hay hát, sẽ bật lên tiếng ca xang bi mẫn giữa bóng đời dâu bể trầm luân. Em là ai? Là duyên nghiệp trùng trùng, là vết thương tâm bạc áo nâu sồng/kiệt trên đời cũ của kiếp người ảo hóa mong manh. Bài thơ thấm đẫm mùi Đạo mà ngan ngát hương Đời nên không có chỗ dừng. Càng tụng, càng hát, càng lung linh màu Sông nước chập chùng/Nước xô thiên địa/Chùa cổ bên sông…

Tinh Sương còn có bài thơ 5 chữ, Quê Nhà, 148 câu, là bài thơ khá dài hơi, ý tứ hàm súc, nội lực thâm trầm. Tôi nghĩ, thi sĩ đã cảm ứng và phát tiết, khai mở và sáng tạo thêm mạch ngầm sâu thẳm mà 2 câu thơ của Huy Cận chưa nói hết:Một chiếc linh hồn nhỏ/Mang mang thiên cổ sầu. Phải chăng, đó cũng là thiện duyên đối với những tâm hồn đồng điệu. Đồng điệu, nhưng đường bay trong cõi văn chương, mỗi người mỗi ngả riêng tây.
Quê nhà, một nơi chốn nào đó trên mặt đất đìu hiu, vòng quay sinh tử dập dìu, đến rồi đi, đi rồi đến, mong manh phận người bụi bặm, hẩm hiu trăng tàn nguyệt tận giọng nói lời chào, Mây bay từ thiên cổ/Cùng nhau trời đất tan/Ta một linh hồn nhỏ/Vơ vẩn miền Đại Hoang.

Quẩy Đá Qua Đồng, gồm 120 câu, là một tiểu trường ca độc đáo. Khổ đầu khai mở bằng 10 câu lục bát để vào chuyện. Tiếp theo, 102 câu phá thể theo kiểu một bài hành cổ phong. Cuối cùng, khép lại bằng 8 câu lục bát. Như một câu chuyện kể, một huyền thoại nơi một vùng địa linh nào đó (không biết có phải là nơi chôn nhau cắt rốn của thi sĩ, hư cấu thêm, muốn ký thác tâm sự chăng?) Trong bài thơ, đá là một vật linh, cất lên tiếng nói, tiếng ngâm ngợi, ca xang giữa thinh không. Giọng đá u trầm

Soi cái hình ta, hề
Minh mông
Soi suốt thiên thu, hề
Thinh không
Trứng con thần ưng
Phơi trên non chóp
Ta nằm muôn năm
Sao chưa thay lốt
Ta uống tinh sương hề bao nhiêu hớp
Thốt với bao la hề khuya hay trưa
Con thần ưng ơi con thần ưng
Con trăn tinh ơi con trăn tinh
Ngươi chơi cùng ta hề
Sao ta chưa bay lên cao hề
Trời xanh xưa hẹn ta hề
Trời xanh nay lừa ta hề
Đất trích chiêm bao
Cho ta hát ngao hề

Đá tâm tình với thần ưng và trăn tinh. Đá hát cho thần ưng vỗ cánh. Đá múa cho trăn tinh phun ngọc. Rồi khi cao hứng, đá bèn

Bày ra một cõi chưa từng có hề
Trời xanh ghen hề đất ghen hề

Thần ưng và trăn tinh đã bỏ đi. Đá tiếp tục độc thoại, tra vấn về bản thân, về mặt đất, trăng sao…Đá hát một mình, đá chơi một mình, đá nghe một mình, đá mộng một mình giữa bốn bề hư không lặng ngắt nhưng vẫn còn nặng lòng với nhân gian:

Trời xanh Nam Hải
Khói vi vu
Soi động hư vô
Mờ nhạt một bầu
Lặng ngắt mênh mông
Câu ca câu hát
Nghe ta xoay vòng
Thiên địa về đâu

Đá lắng tiếng ca, bài thơ khép lại

Nằm nghe đá hát vô minh
Thơ thay con mắt ngó rình hóa công
Bóng ai quảy đá qua đồng
Sầu xưa uất nặng giữa lòng nhân gian

Giọng nói, giọng hát u trầm của đá. Giọng của quỉ thi Lý Hạ đấy chăng? Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ biết đây là một bài thơ kỳ dị, lạ lùng, ý thơ ảo diệu mùi vị Đạo học Đông phương huyền hoặc trong cái ý huyền chi hựu huyền. Thi sĩ ngơ ngác trước thềm sương của vũ trụ, rồi rùng mình hóa thân vào đá, đá hóa thân thành huyết lệ trùng trùng trong tiếng ca xang giữa bóng đời dâu bể. Bài thơ hóa thành mây trắng, bay đi về chốn tuyệt mù. Đọc bài thơ, nghe rờn rợn sống lưng, nghe óc tuôn trào nỗi nhớ không lời, không tên, không tuổi
Tinh Sương, cũng là tinh huyết của thi sĩ

Đại Mộng là tiếng ngân dài của Tinh Sương. Tiếp tục tra vấn, hồi tưởng bằng những ẩn dụ tượng trưng với những bài thất ngôn tứ tuyệt, lục bát bốn câu trầm tĩnh, đĩnh đạt hơn, sâu lắng hơn. Đặc biệt, một bài thơ khá dài, 58 câu, với 3 khổ điệp khúc dặt dìu trong một buổi Sáng Thinh Không

Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một con đường đèo sương đục lô nhô
Một chiếc hồn ma quẩn quanh vạn cổ


Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một chiếc hồn đơn mấy bè mây nổi
Hai con ngựa trắng một chiếc xe tang

Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai con ngựa trắng, một chiếc xe tang
Đất lành gió phủ mây trong mát
Vạn cổ nghe chăng, dưới gót nàng

(Sáng Thinh Không

Nàng,” biểu tượng cho cái Đẹp hiu hắt của trần gian? Hay bóng ma thiên cổ thoáng ẩn thoáng hiện , mệnh hệ của kiếp người hư ảo mù tăm? Vết thương tâm đầu đời, vận vào hồn cốt chữ nghĩa, thấm vào mệnh của thi sĩ?

…Sáng thinh không, sáng dưới chân nàng
Trong lòng vạn đại đã tan hoang
U minh rờn rợn lên vai tóc
Bóng tà vạn thuở đã bay ngang
Sáng thinh không, sáng lặng ngát hương
Êm ả trần gian chợ phố phường
Một bàn tay vẫy trên non tuyết
Một tiếng cười vang cả bốn phương

Tôi đọc và nghe khí lạnh toát ra trong từng con chữ! Bài thơ đã vượt lên cái sự hay bình thường. Bài thơ đã đạt đến cái đỉnh lặng và lạnh của khắp cõi nhân gian. Thi ca đã chết trong thời đại cơ khí gầm gào? Tôi cũng chẳng biết nữa! Nhưng khi được đọc những giòng thơ như trên, tận đáy lòng tôi đang dậy lên một niềm bi mẫn khôn cùng.
Cái Đẹp sẽ cứu vãn thế giới. Ai đã nói như thế? Tôi quên mất. Nhưng tôi tin, tin lắm, cho dẫu là niềm tin hình như không có thật giữa thời buổi nhiễu nhương nầy

Ngả Tư Vầng Trăng và những bài thơ khác trong tuyển tập, hương Đời nhiều hơn, thấm đẫm hơn, nhưng chẳng hiểu vì sao, tôi ít xúc động hơn so với Tinh Sương và Đại Mộng, nhất là Tinh Sương
Ta bước lên đường kêu gọi mãi/Nhớ người bạn cũ thuở anh niên
(Xuân Diệu) Ôi cái thuở anh niên đẹp ngất. Ôi cái thuở anh niên một lần rồi thôi, không có chốn quay về. Góc biển xưa, khung trời cũ hanh hao. Qui Nhơn, Qui Nhơn ngập tràn nắng gió, mộng mị của một thời

Trước Sau như Một. Một cái mối Nhất Dĩ Quán của một đời thơ. Thi sĩ, kẻ thọ nhận điêu linh, mỗi người mỗi kiểu, cô liêu cô độc ngút ngàn. Có còn chăng là tiếng đồng vọng của cố nhân bên trời lận đận. Những trận gió bay đi mịt mờ tuổi dại, nhưng vẫn còn đây những giọt nắng của buổi sơ đầu hạnh ngộ.Quỷ ma đưa mãi lời thiên cổ/ Hiu hắt nghìn thu lạnh khí đồng…Tôi chẳng bao giờ dám quên. Vô cùng biết ơn thi sĩ.

Calif, cuối đông 2011
NLV

Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIÊN 1975 - 2012 (KỲ 103)




NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ



1031 - Duy Lam
BA LẦN TỪ CHỐI DI TẢN
Nhà văn Việt kiều Mỹ tên thật Nguyễn Kim Tuấn sinh 1932 tại Hà Nội. Sống ở Mỹ (2012).
Cháu ruột cố văn hào Nhất Linh (cậu ruột), anh ruột nhà văn Thế Uyên.
Năm 1954 di cư vào Nam. Được Nhất Linh phát hiện văn tài nên dìu dắt bước vào nghiệp văn bắt đầu viết trên tạp chí Văn hóa Ngày nay do Nhất Linh chủ trương. Dần dần được xem tiêu biểu cho thế hệ kế thừa Tự lực Văn đoàn thời Tiền chiến, đã in một vài tác phẩm truyện ngắn, truyện dài.
Rồi động viên đí lính trường sĩ quan Thủ Đức từ đó gắn liền với binh nghiệp, ít có thì giờ sáng tác. Có quan hệ với Quân Dân Đảng và sau này là Phong trào Quốc gia Cấp tiến đều chống Cộng.
Vào thời cao điểm chiến tranh sau 1970 là trung tá chánh văn phòng cho trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn 1 đóng ở Đà Nẵng (tướng Trưởng là em rể con cậu, lấy con Thạch Lam là em ruột mẹ mình).
Cuối tháng 3.1975 khi Đà Nẵng thất thủ đã cùng tướng Trưởng rút về Sài Gòn trong tình cảnh hỗn quân hỗn quan chỉ còn biết nằm “chờ thời”.
Đến cận ngày 30.4 đã ba lần được tướng Trưởng và cố vấn Mỹ đề nghị đưa đi di tản nhưng đều từ chối chấp nhận ở lại đi cải tạo!
Bởi tự thấy phải có lòng tự trọng liêm sỉ khi trước đó từng 2 lần ký tên ở lại “quyết tử” (lần đầu tại Đà Năcng, lần sau tại Sài Gòn cùng các thành viên Phong trào Quốc gia Cấp tiến). Do đó tự nguyện ở lại để đồng cam cộng khổ với anh em đồng chí trong phong trào này với thái độ “bình tĩnh và đầy đủ tự tin đón chờ số phận của mình”.
Thêm lý do sâu xa hơn nữa sau này mới thố lộ: “Chính cái con người nhà văn dấn thân trong tôi đã chi phối sự lựa chọn này. Tôi sợ nếu tôi đã ra đi một ngày nào đó lưu vong ở một đất nước xa xôi và xa lạ nào đó tôi sẽ tiếc là không có dịp ở lại để bị tù đày hành hạ vì như vậy tôi sẽ thành một người ngoại cuộc đối với nỗi thống khổ mà dân tộc tôi phải chịu…”
Với niềm tự tin quyết liệt: “Tôi tin dù họ bỏ tù được thân xác tôi họ không có thể tha hóa được tôi, biến đổi tôi thành một bộ máy vô hồn…
Quả thật đi cải tạo 12 năm, đến 1987 mới về. Một thời gian sau đi Mỹ định cư diện H.O.
Bấy giờ mới chấp nhận thân phận lưu đày tha hương, bắt đầu viết trở lại, in truyện ngắn năm 1995-96. Viết hồi ký dài cả ngàn trang chưa xuất bản.
Tập yoga, luyện khí công để tìm cuộc sống tinh thần thanh thản chờ câu trả lời: “Cuối cùng ai sẽ thắng? Điều đó thì phải 50 năm nữa tôi mới có câu trả lời chính xác.”
.
1032 - Ka Hin
TRỞ THÀNH NGƯỜI DÂN TỘC
Nông dân sinh 1972 tại Long An. Sống ở Lâm Đồng (2008).
Cha tham gia kháng chiến đánh Mỹ thỉnh thoảng mới về nhà, mẹ ở nhà nuôi chị gái và mình tên cũ là Phạm Thị Phụng.
Sau chiến tranh cha trở về nhưng dắt theo thêm… 3 đứa con ngoại hôn nữa (1 trai 2 gái). Vì vậy mẹ ghen tương sinh chuyện lộn xộn trong nhà đưa đến năm 1978 mẹ giận dẫn 2 con gái ruột bỏ nhà lên Tây Ninh sống nhờ nhà bà con.
Đến cuối năm một phần vì buồn phiền mẹ mắc bệnh lao nên phải lên đường đem 2 con định về lại quê cũ với chồng không ngờ trên đường đi phát bệnh nặng phải vào bệnh viện Thủ Đức (TPHCM) cấp cứu. Rồi qua đời tại đây bỏ lại 2 con nhỏ (chị mới 12 tuổi còn mình 7 tuổi) bơ vơ nơi miền đất lạ chỉ biết sống vất va vất vưởng bám vào bệnh viện.
Sau đó 2 chị em mới được đưa vào Trung tâm Thiếu nhi Thủ Đức. Đến năm 1981 bản thân bị đem cho một bà mẹ người dân tộc K’ Ho làm con nuôi tận Bảo Lộc (Lâm Đồng) giấu không cho người chị hay biết. Hai chị em mất tích nhau từ đó.
Phần mình được mẹ nuôi đặt tên lại là Ka Hin thành người dân tộc luôn.
Lớn lên lấy chồng người dân tộc, sinh con gái đầu lòng. Hai vợ chồng trồng cây cà phê làm lụng vất vả vừa nuôi con vừa lo cho mẹ già ốm đau liệt cả 2 chân.
Mãi đến năm 2008 định mệnh xui khiến tình cờ xem chương trình tìm người thân mất tích trên VTV4 (đang xem VTV3 bỗng chuyển sang kênh VTV4) mới nhận ra chị gái từng lạc mình xưa kia xuất hiện nhắn gửi lời tìm em nên… ngất xỉu ngay tại chỗ!
Bấy giờ chị em mới đoàn viên sau 27 năm lưu lạc. Chỉ tiếc không còn gặp được cha vì ông đã qua đời hơn một năm trước rồi.

1033 - Ngô Thế Vinh
NGƯỜI CẢNH BÁO VỀ DÒNG MEKONG
Bác sĩ nhà văn Việt kiều Mỹ sinh 1943 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Tốt nghiệp bác sĩ từ ĐH Y khoa Sài Gòn rồi bị động viên đi lính làm sĩ quan quân y. Song song đó còn sáng tác, viết truyện ngắn và tiểu thuyết.
Năm 1970 tiểu thuyết “Vòng đai xanh” viết về biến cố Fulro nổi loạn ở Tây Nguyên được trao giải văn học VNCH. Nhưng tiếp sau đó viết một số truyện đăng báo in thành tập “Mặt trận ở Sài Gòn” phản ánh tình hình xã hội miền Nam nóng bỏng, ở nông thôn là chiến tranh còn tại thành thị nổ ra nhiều cuộc biểu tình xuống đường chống chính quyền khiến bị đưa ra tòa khép tội gây hậu quả “có hại cho tinh thần chiến đấu” của binh lính VNCH!
Không biết có phải vì vậy hay không mà năm 1971 chuyển về làm quân y sĩ cho lực lượng Biệt kích Dù 81, một đơn vị đặc nhiệm tinh nhuệ chuyên làm nhiệm vụ bí mật nguy hiểm nhảy dù xuống hậu phương miền Bắc đột kích, lấy thông tin địch.
Tháng 4.75 học xong khóa tu nghiệp ở Mỹ nhiều người khuyên hãy ở lại vì trước sau gì miền Nam cũng mất vào tay cộng sản song vẫn nhất quyết trở về.
Kết quả sau ngày 30.4 đương nhiên đi cải tạo nhưng nhờ miền Nam thời đó rất cần bác sĩ (do đa số đều đã di tản hoặc vượt biên) nên chỉ 3 năm thì được cho về làm việc ở Trung tâm Phục hồi - Vật lý trị liệu TPHCM.
Có “đóng góp” cho chế độ mới nên năm 1983 mới được phép qua Mỹ đoàn tụ với gia đình.
Tại Mỹ trải qua 5 năm học lại nghề y để ra hành nghề bác sĩ.
Bây giờ có điều kiện quay lại hoạt động song song bác sĩ – nhà văn như ngày xưa.
Đặc biệt quan tâm tập trung nghiên cứu vấn đề mới có tính chất thời sự về sông Mekong từ Trung Quốc chảy qua các nước Đông Nam Á đang bị Trung Quốc có tham vọng khống chế dòng chảy bằng cách xây một hệ thống nhà máy thủy điện trên thượng nguồn. Từ đó sẽ gây nguy cơ chặn nguồn nước đe dọa làm khô hạn sinh hoạt đời sống các dân tộc sống ở hạ nguôn trong đó có VN.
Đã lặn lội qua Lào, qua tận Vân Nam lãnh thổ Trung Quốc để tìm hiểu. Sau đó năm 1999 đã đưa ra lời cảnh báo sớm đầu tiên về hiểm họa này trong cuốn tiểu thuyết đồ sộ “Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng” dày đến 700 trang. Rồi năm 2007 tiếp tục nhấn mạnh vấn đề trong cuốn “Mekong dòng sông nghẽn mạch”.
Năm 2006 trở về thăm quê hương, nhân đó có tìm đến tham quan tràm chim Tam Nông ở Đồng Tháp lấy tư liệu viết về thực trạng loài sếu đầu đỏ quý hiếm có thể bỏ đi trước mối đe dọa ô nhiễm hủy diệt môi trường.

1034 - Nguyễn Văn Vinh
BỆNH SUY TỦY SỐNG
Lao động nghèo sinh tại Vĩnh Phúc. Sống ở Vĩnh Phúc (2010).
Bố là bộ đội chiến đấu ở miền Nam về phục viên đến năm 2002 mắc chứng bệnh lạ toàn thân cơ bắp và tay chân cứ teo dần chỉ còn xương bọc da rồi qua đời năm 2003.
Bản thân làm nghề gánh cát dưới bãi sông đi bán nuôi vợ và 2 con cùng mẹ già hơn 70 tuổi. Nào ngờ chỉ một năm sau đến lượt mình cũng bị bệnh tương tự như bố, đi khắp các bệnh viện đều lắc đầu không biết bệnh gì. Mãi sau đến bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nội mới chẩn đoán là bệnh suy tủy sống hiếm gặp có lẽ do hậu quả CĐDC thời chiến tranh bố bị lây nhiễm.
Điều trị căn bệnh lạ này đã khó mà tiền bạc gia đình không có nên đành chịu trận uống đại mấy thứ thuốc thày lang rẻ tiền cũng như không!
Vì vậy ban đầu còn đi đứng lắt nhắt được tự lo cho bản thân nhưng qua năm 2006 thì nằm liệt một chỗ không gượng dậy nổi nữa. Mới 37 tuổi mà trông cứ như ông già 60 tuổi!
Từ đó tất cả việc nhà đều đặt gánh nặng lên vai vợ phải bỏ làm công nhân nhà máy da giày để chuyển qua làm công nhân quét rác mong có thì giờ lo việc ruộng đồng phụ thêm để nuôi cả nhà với chồng bệnh, 2 con nhỏ dại và bà mẹ già.
Nhưng một mình người đàn bà làm sao gồng gánh nổi, đến lúc cả 2 vợ chồng phải xót xa thừa nhận rằng “Tôi và nhà tôi gần như bất lực thực sự rồi”…

1035 - Nguyễn Văn Xê
CÁN BỘ CHỊU ÁN OAN NGẬM HỜN NƠI CHÍN SUỐI
Nông dân sinh 1937 tại Bến Tre – Mất 2006 ở Bến Tre (70 tuổi).
Từng bị bắt đi lính VNCH rồi được giác ngộ cách mạng theo chí hướng cha trước kia theo cộng sản nên tình nguyện hoạt động nội tuyến. Năm 1962 ra vùng giải phóng làm phó công an rồi trưởng công an kiêm chủ tịch xã (bí danh Tùng Cương).
Thình lình giữa năm 1974 bị bắt vì tội làm gián điệp cho địch, bị một nữ điệp viên của địch gài vào nội bộ dụ dỗ, hủ hóa! Cùng lúc vợ hoạt động kinh tài cũng bị chính quyền VNCH bắt giữ.
Liên tục kêu oan, nhiều lần đòi tự tử nhưng tiếng kêu không ai nghe thấy, không được đưa ra xét xử, đối chất cho đàng hoàng mà cứ giam mãi.
Sau ngày giải phóng vẫn bị giam giữ, người cha đau buồn tủi hổ quá sinh bệnh mất năm 1976 mà mình không được về thọ tang. Cả người em trai đi bộ đội cũng bị mang vạ lây cho ra quân về bỏ đi xứ khác làm mướn do không chịu nổi dư luận làng xóm phỉ nhổ “gia đình phản bội”.
Đến năm 1977 mới được trả tự do về làm dân mà không hề có bản án xét xử nào.
Tủi nhục quá muốn chết cho xong may mà bên cạnh còn người vợ tuyệt vời hết lòng an ủi, khuyên giải phải sống để tìm cách giải oan, nếu không chết rồi phải chịu tiếng oan muôn đời: “Con đường mình đi lỡ có oan khiên phải tìm cách mà gỡ. Đảng không có lỗi, cách mạng cũng không có lỗi, chiến tranh là phải mất mát. Nó rơi vô chỗ mình thì mình gánh chịu thôi…”
Nhờ đó mà gượng sống lây lất trong cảnh bần cùng vợ con nheo nhóc khốn khổ.
Đến năm 2006 được một đồng chí cũ nay lên chức trưởng ban tổ chức tỉnh ủy cảm thương mới vận động tiến hành lật lại hồ sơ vụ án. Nhưng chưa kịp làm gì thì mình đã bị tai nạn qua đời với nỗi oan khiên chưa được giải tỏa!
Tuy nhiên cái chết oan khuất đó cũng đánh động lương tâm đồng đội cùng một thời chiến đấu vào sinh ra tử nay kẻ còn thì phải lo cho người mất buộc phải tiếp tục tiến hành cuộc điều tra cho rõ đâu là sự thật. Kết quả cho thấy đúng là đồng chí mình đã chịu án oan từ âm mưu của nữ điệp viên kia (cô này sau đó đã bị xử tử) cộng với sự hiềm kích mâu thuẫn giữa đương sự với vị bí thư xã lúc đó.
Từ đó án oan được xóa bỏ, trả lại danh dự cho gia đình, chỉ tiếc người được minh oan mãi mãi không biết được điều đó.

1036 - Nguyễn Xuân Bảo
MỤC SƯ “KHÔNG NGỦ YÊN”
Mục sư đạo Tin Lành Việt kiều Mỹ sinh tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1977 vượt biên qua Mỹ, học tiếp lấy bằng tiến sĩ.
Năm 1989 quay về VN với ý định tham gia công tác từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo, bệnh tật ở quê nhà. Nhưng được một thời gian đến năm 1993 bị chính quyền nghi kỵ ra lệnh trục xuất cấm trở về.
Đến năm 2000 mới được cho phép về nước lại để hoạt động từ thiện. Từ đó đã lập tổ chức Thánh đường Sài Gòn đặt tại California nhằm vận động Việt kiều đóng góp công của mang về VN cứu trợ đồng bào gặp nạn bão lụt, bệnh nhân phong, thương phế binh chế độ cũ….
Dù đang mắc bệnh nan y vẫn nhiều lần về nước tổ chức nhiều chuyến đi đưa hàng cứu trợ đồng bào không phân biệt tôn giáo khắp các tỉnh thành.
Việc làm đó đã bị các nhóm chống Cộng hải ngoại quá khích phản đối kịch liệt, bôi nhọ vu khống, thậm chí còn đốt cháy nhà thờ của ông ở Quận Cam trong dịp lễ Giáng sinh 2004.
Dù vậy vẫn kiên trì mục tiêu cao thượng của mình: “Ngày nào mà dân mình còn nghèo không có cơm ăn không có mái ấm để ở thì ngày ấy tôi không ngủ yên… Tôi không muốn chết trong nhà hay trong nhà thờ. Tôi muốn chết khi đang đi phát gạo cho dân nghèo.”

1037 - Nguyễn Xuân Hưng
TỪ NGUỒN CẢM HỨNG RỪNG TRƯỜNG SƠN
Doanh nhân sinh 1942 tại Hà Nam. Sống ở Hà Nam (2007).
Năm 1964 dù đã có vợ 2 con vẫn nhập ngũ lên đường vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Con đường Trường Sơn thật đúng là con đường gian khổ nhưng qua đó lại đem đến cho người lính này một tình yêu hoa phong lan đằm thắm khó quên.
Năm 1968 trong cuộc chiến đẫm máu chiếm giữ Huế gần một tháng đã bị thương phải cưa mất bàn chân trái rồi chuyển về Hà Nam an dưỡng. Sau đó xuất ngũ năm 1971 ra làm kế toán công ty ở Hà Nam Ninh.
Năm 1989 về hưu nhưng trong thời buổi bao cấp đời sống quá khó khăn đồng lương hưu không nuôi nổi vợ và 5 con dù đã cố xoay xở mở một quán nhỏ bán hàng lặt vặt. Vì thế nặn óc suy nghĩ tính kế tìm thêm cách kiếm sống thêm.
Từ đó bỗng nhiên lóe lên hình ảnh kỷ niệm những giò phong lan rực rỡ trên dặm đường Trường Sơn ngày nào. Thế là với một bàn chân giả đi khập khễnh vẫn chống gậy lên đường quay về lại đường Trường Sơn năm xưa tìm mang về một số giò phong lan đẹp quý hiếm với ý định thử nuôi trồng làm cây cảnh đạp xe thồ đi bán dạo.
May mà lúc đó đây là thú chơi khá lạ nên cũng có người mua. Rồi được nhiều người ủng hộ, khuyến khích và gợi ý thêm, còn học hỏi phát triển ra làm thêm các loại cây cảnh tương tự và bonsai kèm hòn non bộ.
Để có đá và cây cảnh đẹp, lại tập tễnh đi đến các vùng rừng núi khác ở Hòa Bình, Thanh Hóa, Hoàng Liên Sơn chọn lựa vật liệu ưng ý về chế tác. Bao nhiêu ký ức về một thời từng trải rừng núi Trường Sơn hoang dã được gọi về làm niềm cảm hứng phong phú giúp sáng tạo nên những hòn non bộ và cây cảnh đặc sắc, độc đáo rất có hồn.
Nhờ đó nghề chế tác và kinh doanh mới mẻ này ngày càng thu hút khách mua khắp nơi, tiến lên thành lập 4 cơ sở có vốn đầu tư trên 10 tỉ đồng, từ năm 1999 còn xuất khẩu ra các nước ngoài nữa. Với gần 400 công nhân làm việc trong đó ưu tiên con em đồng đội cũ, gia đình thương binh liệt sĩ…
1038 - Nguyễn Xuân Phong
NHÂN VẬT “HÒA ĐÀM”
Trí thức Việt kiều Mỹ sinh tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Học ở Pháp và Anh (tốt nghiệp ĐH Oxford) năm 1960 về miền Nam làm doanh nhân ở Sài Gòn. Đến 1965 bắt đầu tham chính giữ nhiều chưc vụ cao trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, làm Tổng trưởng Xã hội – Chiêu hồi rồi Bộ trưởng Ngoại giao.
Năm 1973 được cử làm Trưởng phái đoàn VNCH tại hòa đàm Paris qua đó làm quen với Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch kiêm Phó đoàn miền Bắc cùng dự hội nghị Paris. Cả 2 gặp gỡ nhau cùng ý hướng muốn vãn hồi hòa bình cho VN vì “cuối cùng hận thù và đắng cay không bao giờ sinh ra điều gì tốt đẹp thật sự.”
Cuối tháng 4.1975 quyết định rời Pháp khi cuộc hòa đàm đã tạm ngưng do quân cộng sản đang thắng thế trên chiến trường chuẩn bị tiếng vào Sài Gòn để về nước bất chấp mọi lời khuyên can đừng về sẽ bị cộng sản bắt giam. Những vẫn về vì không muốn bỏ rơi cha mẹ, vợ con đồng thời thâm tâm vẫn mong mỏi thấy hòa bình trở lại trên quê hương.
Hậu quả là chỉ 5 ngày sau quân cộng sản giải phóng Sài Gòn, bắt đi cải tạo 5 năm ở miền Bắc.
Năm 1980 được trả tự do về Sài Gòn đi dạy tiếng Anh độ nhật. Bình thản chấp nhận thực tế phải thế để sống nhẹ nhàng với niềm tin đạo Thiên Chúa vững chắc.
Có dịp gặp lại “đối tác” Nguyễn Cơ Thạch nay đã là bộ trưởng ngoại giao, vẫn được trân trọng và đã có góp ý chế độ cộng sản nên đổi mới kinh tế cũng như khôi phục quan hệ bình thường với Mỹ.
Mãi đến năm 2000 mới được cho phép qua Mỹ định cư.
Năm 2001 xuất bản hồi ký “Hope and Vanquished Reality” (“Hy vọng và thực tế tan biến”) ở Mỹ. Cộng tác với Trung tâm Nghiên cứu VN tại đây.

1039 - Nguyễn Xuân Phượng
ĐÁNH PHÁP NHƯNG ĐƯỢC PHÁP GẮN BẮC ĐẨU BỘI TINH
Cán bộ về hưu sinh 1929 tại Huế. Sống ở TPHCM (2011).
Là nữ sinh trường Đồng Khánh đã tham gia chống Pháp ở Huế rồi ra Khu IV gia nhập đoàn kịch cách mạng. Sau đó được đưa lên Việt Bắc tham gia công tác chế tạo vũ khí đánh Pháp.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ được giao nhiệm vụ thông dịch viên tiếng Pháp tiếp các đoàn nước bạn qua thăm, tham quan, làm phim về cuộc chiến Việt – Pháp kể cả một số đạo diễn Pháp.
Chiến tranh chống Mỹ bùng nổ, tiếp tục hướng dẫn các đoàn bạn đi thực tế chiến trường đánh Mỹ vừa kiêm luôn phóng viên chiến trường trong đó không ít lần thoát chết dưới làn bom đạn Mỹ.
Khi đất nước đã hòa bình thống nhất lại chuyển qua làm đạo diễn phim tài liệu từ đề tài về nạn diệt chủng Pol Pot ở Campuchia đến cuộc đời và sự nghiệp nhà bác học Pháp Yersin ở Khánh Hòa.
Năm 1989 về hưu đã 60 tuổi mà vẫn còn tràn trề sức sống hăm hở muốn hoạt động tiếp tục nữa. Nhưng bây giờ một lần nữa muốn chuyển qua một lĩnh vực và môi trường khác nên tự vay tiền bạn bè để mua vé qua Pháp tìm hướng làm việc.
Nhờ từng là thông dịch tiếng Pháp và quen biết nhiều bạn Pháp nên nhanh chóng được nhận vào làm khâu chuyển ngữ cho hãng phim Pháp, đặc biệt làm quen tạo được mối thân tình với giới họa sĩ Pháp. Từ đó học thêm nghề về hội họa.
Năm 1990 quay về TPHCM mở phòng tranh Lotus (Bông sen) triển lãm tranh ảnh của các nghệ sĩ VN. Đồng thời thông qua mối quan hệ rộng rãi với bạn bè quốc tế đã đứng ra làm nhịp cầu đưa các tác phẩm đó ra giới thiệu ở nước ngoài, hơn cả chục nước từ Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Ý, Hà Lan, Phần Lan, Thụy Sĩ, Hong Kong, Malaysia…
Bên cạnh đó còn tham gia làm phim, dịch sách Pháp – Việt lẫn Việt – Pháp, tổ chức hội thảo, gặp gỡ hai giới họa sĩ Việt – Pháp nhằm phát triển mối giao lưu văn hóa, lịch sử giữa hai nước.
Từ đó gần cuối năm 2011 Chính phủ Pháp đã tổ chức lễ trao tặng cho bà Huân chương Bắc đẩu Bội tinh cao quý ghi nhận những cống hiến đó.
Đã 83 tuổi nhưng người phụ nữ đa năng xông xáo như một lão tướng này vẫn còn làm việc 12 giờ mỗi ngày cả ở trong nước lẫn ra nước ngoài vì “Ai cũng chỉ có sống có một lần thôi. Làm sao để hơn 80 năm cuộc đời mà không phải hối tiếc chuyện gì.”

1040 - Nguyễn Xuân Quang
TÌNH YÊU TÁO BẠO
Thương binh sinh 1941 tại Phú Yên. Sống ở Phú Yên (2007).
Năm 1969 đi du kích xã bị trúng mảnh đạn cối vào thái dương làm mất 2 mắt.
Được đưa ra Bắc chữa trị nhưng mảnh đạn nằm trong đầu không gắp ra được nên gặp trái gió trở trời thường xuyên làm nhức đầu như búa bổ.
Sau chiến tranh được đưa về lại quê nhà vào trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh.
Tại đây gặp một nữ điều dưỡng góa chồng (2 con) nhỏ hơn 18 tuổi sinh lòng yêu thương mới quyết tâm tỏ tình muốn lấy làm vợ, hoàn toàn không một chút mặc cảm thương binh nặng bất chấp lời khuyên can của mọi người chuyện bản thân mình đui mù, bệnh tật lại đã lớn tuổi mà vợ tuổi nhỏ như con mình. Mặc kệ, đây là mối tình đầu tiên cũng là cuối cùng phải lấy thôi: “Yêu nhau thì sợ gì?”
Thế là hôn lễ vẫn cử hành năm 1998 với chú rể 57 tuổi cô dâu 39 tuổi. Và một năm sau đã có được bé gái con đầu lòng như ai!
(Còn tiếp)

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

VỚI H - LÊ NGỌC THUẬN

Nụ hôn cũng man khai hộ tịch
và tay chân lừa lọc yêu ma
anh vốn đã bên bờ phóng đãng
nên cơn say xảo quyệt tâm tà

em bé bỏng làm sao biết được
đôi môi anh hằng vạn dối gian rồi
mỗi hơi thở cũng mang tầm quỷ sứ
huống hồ chi thân xác luân hồi

anh là kẻ thất tình đang tại chức
cần lưu manh để cứu vớt cơ đồ
em thánh thiện yêu người không biết đếm
đâu biết tình cũng tráo trở tham ô

Khổng Tử nói từ xưa – Nhân chi sơ
trong bào thai anh nghiệp chướng đã chờ
tu cách mấy cũng quay về địa ngục
đừng buồn anh khi bẻ ngoặc không ngờ

anh vốn dĩ đồ ba que xỏ lá
tội đầy đầu khi phỉnh gạt hồn em
không thể chết nên anh đành phải sống
bởi rượu còn – ly còn – còn ngày, còn đêm

thôi trả lại em cho mặt trời
trả mùa xuân cho đôi mắt tinh khôi
và ta lẫn trong bóng mù tăm tối
vẫn một mình rượu rót xa khơi

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

LA ĐÀ CÀNH XUÂN - HOA THI

mười hai tuổi, dậy núm cau
chợt như ghiền bệnh chải đầu soi gương
thèm đi khống khứ ngoài đường
hàng cây, cỏ dại bình thường, lạ ra

một đôi khi hoảng, như là
đụng nhằm phải những bóng ma vô hình
mười lăm tuổi, bước rung rinh
lụa thơm gói trái đào tinh khiết hồng

hai bàn chân bớt lông bông
đẩy cho đầu óc khi không phiêu bồng
giọt mưa chợt rớt trong lòng
ngọn nắng chợt ghé chở hồn đâu đâu

mười bảy “bẻ gãy sừng trâu”
bờ hoa cỏ ướt bên đầu gối mơ
soi mình trong mỗi sợi thơ
đời cho lòng nhận, lòng cho ai chờ ?

hạt tình gieo giữa hư vô
nở ra triệu nụ vu vơ nhớ, buồn
hai mươi tuổi, ngát tình hương...
chừ ba mươi, vượt bình thường hơi xa

nhánh xuân óng ánh mượt mà
nguồn thơm vẫn ở chánh tòa phát hương
em không kiểu cách, dị thường
em là người đẹp biết buồn biết vui

xuân xanh lững thững theo đời
tình em ở lại với người yêu thơ

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

GIÊNG HAI - NGUYỄN MIÊN THẢO


Chừ anh đã có Giêng Hai
Em đem đến một sớm mai diệu kỳ
Anh trao em nụ thầm thì
Em trao anh nụ thầm thì ngày xưa
Yêu em biết mấy cho vừa
Yêu em biết mấy cho vừa , người ơi

Hàm Luông đã nổi sóng rồi
Mùa Xuân chào đón Hai Người :
Tình Nhân

NMT
BT,16.02.2012

TÂM SỰ CỦA MỘT NGƯỜI - PHAN LỆ DUNG

Tiếng ru tôi đầu tiên
Là tiếng ê a của những học trò áo rách
còn dính đầy bùn đất.
Tiếng hát của cha không vào nhịp
Lũ học trò hì hục hòa âm
Tiếng cối xay của mẹ ngày ngày
Tiếng lúa chảy xuống sàn nhà nửa đêm
Xoáy vào tim tôi sâu thẳm
Sâu tận đáy lòng.

Ngày tháng trôi
Tôi lớn lên trong căn nhà lạ
Ở đó không có đàn gà bươi trong đụn rơm rả mục
Không có củ khoai củ sắn cây cà cây ớt
Không có tàu lá chuối non
Không có cái lu lặng im đứng ở góc nhà
Không có con chó con mèo đuổi nhau đụng bàn đụng ghế
Không có cái liềm cái hái sớm mai lũ lượt ra đồng
ngày mùa háo hức.

Đêm
Tôi nhớ cái nhà nhỏ có bụi tre vàng
Nhớ giọt mưa mắc trên ngọn lá cỏ mực
Nhớ con búp bê gãy tay
nằm lăn lóc giữa nhà
Nhớ con chuồn chuồn đậu trên nhánh nè
ngoài vườn buổi sáng
Nhớ cọng rơm khô rơi vãi giữa đường
Nhớ chiếc chiếu rách phơi ngoài hàng rào
buổi trưa trời nắng
Nhớ mẹ
Nhớ cha.

Rồi ngày tháng cứ trôi
Tóc tôi điểm bạc
Nỗi nhớ tôi thành sẹo
Mang theo
ký ức buồn
Tiếng súng lẻn vào ngõ xóm
Đêm
Tiếng rên của mẹ

tiếng lạnh buốt
một bàn tay
ẵm tôi.

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 3) - VÕ CHÂN CỬU




Trăng tháng Giêng

“Hãy khoác cho thi sĩ một vòng hoa và mời hắn ra khỏi thành phố ” ! Câu nói của triết gia Platon từ khoảng 350 năm trước công nguyên đến nay như vẫn còn thấy đúng. Làm sao cho thi sĩ không còn gặp cảnh này ?
Hàng năm, cứ ăn Tết xong, chúng tôi lại hẹn nhau gặp mặt nhân ngày giỗ Vũ Hữu Định (VHĐ). Từ đêm 16 âm lịch, tháng Giêng 1981, đến nay đã vào năm cách biệt thứ 32.

Vào cuối 1980, tôi ngầm tính toán các điều kiện để vào năm mới cho vợ con về lại Sài Gòn sinh sống. Bỗng nhiên Định cùng một người bạn là Cao Trần từ Đà Nẵng vào có mặt ở Quy Nhơn, mục đích chính là để thăm tôi. Lúc này vừa bị nhà máy điện Đà Nẵng thanh lọc ra khỏi tầng lớp “giai cấp công nhân”, và cũng là lần đầu tiên sau 1975 anh tung cánh giang hồ trở lại.
Nhà thơ “ngoại lệ”
Trong số những người làm thơ nổi bật ở Sài Gòn giai đoạn 1968-1975 thì VHĐ là một ngoại lệ. Cao trào văn nghệ-triết học và tác động chiến tranh lúc này khiến nhiều nhà thơ mới xuất hiện đều có dáng vẻ “nặng phần trình diễn” cả trong ngôn từ thơ ca lẫn cách ăn mặc, xuất hiện ở các quán cà phê. Người thì ‘bất cần đời” qua bộ treilli nhuốm màu bụi đỏ, bông mai xộc xệch; người kính cận dày trệ sống mũi, hoặc choàng bộ áo cà sa, tay ôm những chồng sách nặng. Có người đưa cả những dòng triết học tiếng Pháp, tiếng Đức để thơ mình có dáng vẻ hiện đại. Vũ Hữu Định thì không như vậy. Vừa lên tới căn gác trọ của chúng tôi, anh đã cởi áo sơ mi ra, chiếc bụng tròn trần trùng trục. Trải chiếc, lăn một giấc, ngáy khò xong là anh ngồi dậy dựa tường, lấy giấy kê lên đùi. Dòng thơ tuôn chảy.
Lớn hơn tôi cả 10 tuổi nhưng anh vẫn nhất định cùng tôi gọi nhau là mi, tau, không kiểu cách. Dạo ấy trên căn gác gỗ đường hẻm Nguyễn Huỳnh Đức-Phú Nhuận, tôi ở trọ chung cùng Lê Phiên Vươn, Nam Chữ, Nguyễn Lương Vỵ. Mỗi người một góc, một bàn học, một va-ly riêng. Mỗi người đều tôn trọng nhau, dành sự yên lặng để bạn mình làm việc, học hành. Và ai cũng thích Định vì anh xởi lởi, nói huỵch toẹt mọi vấn đề. Chúng tôi hiếu khách nên nhiều lớp làm văn nghệ ở xa về Sài Gòn lại tìm đến đây ngủ nhờ. Đủ mọi thành phần cùng dịp gặp nhau, như Nguyễn Nguyên Phương từ Trường chiến tranh chính trị Đà Lạt xuống, Nguyễn Mạnh Dạn từ chi khu Trị Tâm Tây Ninh về, hoặc Nguyễn Miên Thảo ngấm ngầm hoạt động “bí mật” khi làm nhật báo…nhưng không ai đụng nhau.
Sự có mặt của Định làm phá tan những định kiến về người làm văn nghệ. Anh học hành không đến nơi đến chốn, từng làm đủ thứ nghề: bán báo, đánh giày, lính đào ngũ, quẳng áo xây dựng nông thôn…nhưng chữ nghĩa viết ra câu nào ra câu đó, thơ thì bài nào cũng tràn đầy cảm xúc, từ tình yêu đến men rượu giang hồ. Cứ dăm ba ngày, kiếm đâu ra được ít tiền thì anh lại bảo: để tao đi chơi một chuyến. Hết Cần Thơ đến Sa Đéc, Long Xuyên. Khi tôi dọn đi ở riêng ở quận 1 rồi quận 3, anh lại theo tôi. Một bữa tối, khi cả 2 đều hết tiền ăn, Định chợt ngĩ ra, bảo tôi: mi chở tau xuống Đêm Màu Hồng, đứng ngoài đường chờ. Kỳ này nhất định lấy được tiền. Té ra anh xăm xăm vào để gặp nhà nhạc sĩ nổi tiếng đã phổ bài “Còn chút gì để nhớ”, nói thật rằng mình mới đào ngũ về. Và anh đã lấy lấy được tiền “tác quyền” lời thơ.
Lăn lóc dòng đời nên Định đã chơi thân với ai thì rất thương bạn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để bạn vui, khỏi âu lo. Đến Quy Nhơn, Định và Cao Trần suốt ngày đi uống rượu, hết dọc bờ biển lại vào quán cóc ven sườn núi. Giới văn nghệ cũ ở Quy Nhơn lúc này ngoài tôi, còn Đặng Tấn Tới ở Thị trấn Bình Định. Riêng một nhà thơ “tranh đấu” gốc Huế và vài cây bút văn xuôi “30-4” thì được chính quyền chiếu cố, đưa vào biên chế sáng tác cùng các nhà thơ “cách mạng chính thống” được trại viết Quân khu 5 phân công về. Biết tính “dĩ hòa” của tôi, sau ngày đầu rong chơi, Định đến gõ cửa Tạp chí Văn nghệ tỉnh gửi ngay bài thơ có xu hướng ca ngợi cảnh đẹp quê hương mà anh đã làm ở Đà Nẵng sau khi được dự các buổi “nâng cao tư tưởng”. Bài thơ tựa đề “Mùa lúa mượt” mở đầu với 2 câu: Sương chiều thổi xuống ruộng non, Gió hấp tấp theo mây luồn qua núi.., nhưng sau đó thì hình ảnh gượng gạo…Rõ ràng là dù sử dụng ngôn từ, gieo vần nhuần nhuyễn nhưng sáng tác không thực sự từ cảm hứng thì sẽ vô hồn. Loại thơ “vô thưởng vô phạt” này chỉ nhằm để khỏi bị bắt bẻ là không hào hứng với cuộc sống mới nên không sáng tác !
Gửi thơ xong, Định và Cao Trần tiếp tục đi ra phố kêu rượu, chờ tôi. Sau 3 ngày rong chơi, tôi tiễn cả hai lên chiếc xe đò có động cơ chạy bằng than về lại Đà Nẵng. Sau những ngày tết Tân Dậu (1981), tôi nhận được bức thư tay có bài thơ “chào năm 41 tuổi” do Định chép gửi từ Đà Nẵng vào. Bài thơ có nội dung “tổng kết đời minh”. Ai ngờ đó là những câu linh cảm. Sau một cuộc rượu say túy lúy cùng các bạn văn nghệ, Định đưa đưa về ngủ ở nhà người em ruột là Lê Quang Tấn ở bên kia cầu sông Hàn (quận 3) cho mát. Nhà Tấn mới xây, anh ra nằm ngoài tấm Veranda cho mát. Nhưng tấm bao lơn này chưa có lan can. Nửa đêm trăng sáng, anh đứng dậy bước ra, như để đi về nhà. Tính Định vẫn vậy, dù nhậu say, ngủ vùi, nhưng khi tỉnh dậy, việc đầu tiên là anh đi về ngay nơi ở thân thuộc nhất. Khi ở Sai Gòn là về nhà trọ có tôi.
Vòng hoa xứng đáng

Mỗi lần em sinh nở
Là anh lại vắng nhà
Mai này em nằm ổ
Anh lại trên đường xa…
“Bài thơ cho vợ” mà Định làm trên “căn gác nhỏ dưới tàn cây vú sữa/Mùa lá khô lật saấp những trang đời”(VCHC) như thế. Tôi viết những dòng này mà lòng ô vàn cảm ơn chị Vân, người vợ hiền hậu của Định. Nếu không có chị chăm lo “Năm đứa con như năm hạt ngọc” thì có lẽ những dòng thơ đắm say của anh không thể tuôn trào: Đời để lại cho anh ngoài ô cửa sỏ/ Một hình mây, bóng núi, tin sông... Năm 2006, nhà phê bình Đặng Tiến đã ghi nhận rất chính xác: “Thơ VHĐ là điển hình cho thơ trữ tình hiện đại. Nó không gai góc thách thức; ngược lại nó kết thêm đằm thắm, quen thuộc. Lay đọc người đọc bằng tình cảm trong sáng và thiết tha, bằng nét tài hoa vô tội”.
Những người phụ nữ tuyệt vời, là vợ các nhà thơ như chị Vân ngoài sự chiều ông chồng làm thơ, còn có sự cảm thông sâu sắc với những thi sĩ là bạn hữu thân thiết của chồng mình. Ông Bùi Bảy, người thay mặt tộc họ Bùi chăm lo phần mộ và giỗ chạp thi sĩ Bùi Giáng vẫn công bố với mọi người: sau năm 1975, tai Saigon có 5 người vợ các nhà thơ bày tỏ sự quý trọng đối với Bùi thi sĩ bằng cách: đưa anh ra tắm dội, tự tay mình giặt gỵa bộ quần áo hôi hám rồi lấy đồ mới cho mặc. Đó là các bà: Đông Phương Huệ, vợ Lê Nhược Thủy, Ngọc Phượng-vợ Nguyễn Lương Vỵ, Phương Bình-vợ Trần Từ Duy (Đông Ki Rét), Hoàng thị Hiệp-vợ anh Phạm Trung Cang (em ruột thi sĩ Phạm Công Thiện) và bà Hữu Hạnh, vợ Võ Chân Cửu. 4 chị đầu tiên đều lần lượt ra định cư ở nước ngoài. Giữa thập kỷ 90, căn nhà của vợ chồng tôi ở sau lưng chùa Già Lam là nơi lui tới hàng ngày của Bùi Thi sĩ. Nơi ở chính của anh cách đó chỉ vài trăm mét. Và thi sĩ Bùi Giáng mỗi khi được ai tặng món tiền nhỏ nào cũng đem tới đưa cho bà vợ VCHC cất để khi cần thì tới lấy một ít đi uống rượu ! Anh còn viết cả mấy dòng trên giấy để nói rõ về sự cấtư4 này !
Một bữa tháng giêng 1995 có một người nói giọng Hà Nội mò vào hẻm 482 Lê Quang Định hỏi tìm nhà tôi. Anh ta gặp ngay người đàn ông áo quần xốc xếch nằm ở ngã ba đường hẻm, đứng lại tò mò. Bà bán tạp hóa-cóc ổi và rượu nhạt ven hè nói: Ông thầy đây là “thầy” của “ông thầy” mà anh muốn tìm, nhà ở trong kia ! Người khách lạ không hiểu gì hết !
Thì ra người đàn ông tên Cảm, ngoài 30 tuổi này được thi sĩ Nguyễn Đức Sơn từ Bảo Lộc giới thiệu xuống. Anh cho biết anh đã từng viết văn, làm thơ, và là chồng của một nhà văn nữ thời danh ở Hà Nội. Hai người kết hôn khi còn là sinh viên, nhưng phải ly dỵ nhau sau khi cô nổi tiếng. Buồn đời, nghe qua tin đồn, anh mò vào Bảo Lộc để học theo cách sống của thi sĩ NĐS: tự trồng trỉa, hái lượm. Sau một năm, anh phải ra đi.
Về Saigon, lại gặp một trời thơ như hình ảnh Bùi Giáng, anh bạn người Hà Nội từng muốn thành nhào7 càng tá hỏa về cách sống của các văn nghệ sĩ Sài gòn. Vợ tôi giải thích rằng vợ chồng tôi kính trọng và quý anh Giáng như ông anh. Mỗi người thích sống kiểu nào mặc kệ họ. Còn như anh, có nhà ở Hà Nội thì nên về Hà Nội, khi nào cưới được cô vợ người Miền Nam thì hãy vào. Vì trên đời, tất cả thơ ca, nghệ thuật đề không thể tồn tại khi không có bàn tay người phụ nữ.
Nghe lời, Cảm tiếp tục tên đường tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã gặp được một cô gái trẻ Phú Yên cảm thông. Một bữa nọ, anh quay lại Sàigòn, nói: em hiểu ra rồi !
Vợ chồng tôi liền nhận lời thay mặt họ nhà trai đi cưới vợ cho anh. Vợ tôi trao cho người từng muốn thành thi sĩ một vòng hoa trong ngày cưới.

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 102 )




NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1021 - Bùi Xuân Bào
ĐỌC THUỘC THÁNH KINH TRONG TRẠI CẢI TẠO
Giáo sư đại học sinh 1916 tại Huế – Mất 1991 ở Pháp (76 tuổi).

Học trung học trường Quốc Học ở Huế (mẹ dòng hoàng tộc). Rồi đi du học Pháp tốt nghiệp tiến sĩ văn chương Pháp, được xem là người VN viết văn Pháp hay nhất.

Về nước dạy đại học môn Pháp văn, từng 2 lần làm khoa trưởng ĐH Sư phạm Sài Gòn và ĐH Văn khoa Sài Gòn, có viết một số bài báo nghiên cứu văn học phương Tây.

Đã 2 lần làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Giáo dục tuy không quan tâm gì nhiều đến chính trị (được mời tham gia chính phủ vì có uy tín khoa bảng lớn trong nước).

Lần thứ hai nhận chức thứ trưởng được vài ngày trong chính phủ cuối cùng của VNCH thì giải phóng 1975. Vì vậy phải đi cải tạo ba năm (có 2 em ruột dạy học và sĩ quan VNCH đều chết trong chiến tranh).

Là anh cả trong gia đình nề nếp Nho giáo song chịu ảnh hưởng Công giáo từ nhỏ do đi dạy trường Công giáo ở Huế và lại có một người em ruột theo đạo Công giáo nhưng bản thân mình vẫn chưa chịu cải đạo. Đến năm 1947 khi người em trai đang làm hiệu trưởng một trường Công giáo ở Quảng Bình bị cộng sản bắt giam rồi thủ tiêu, quá thương nhớ em nên mới quyết định theo đạo từ đó để được “gần em và gặp em” trong cùng chung một niềm tin cứu rỗi, để “tiếp tục giương cao ngọn đuốc đức tin mà hình như em đã trao lại cho con”.

Ngoài ra còn một em gái cũng đi tu sau này nổi tiếng là Mẹ Mai Thành dòng Đức Bà (Couvent des Oiseaux) ở TPHCM hiện nay.

Vì thế trong trại cải tạo đã nghiền ngẫm đọc đi đọc lại trọn bộ cuốn Thánh kinh (giấu mang theo vào trại) hơn 30 lần để thấu suốt ý nghĩa giúp giữ vững đức tin trong bất cứ hoàn cảnh đày đọa gian khổ nào.

Có lẽ cũng nhờ đó mà năm 1978 ra trại được cho đi dạy tiếg Pháp ở ĐH Tổng hợp TPHCM vẫn giữ được cách sống hiền hòa thanh thản, chỉ biết tận tâm dạy học chứ không hề có chút gì thở than oán hận nhân sinh thế sự.

Năm 1982 mắc bệnh tim nặng nên được cho đi Pháp giải phẫu rồi ở lại luôn. Đến 1991 qua đời được kể lại là “trong cảnh cô đơn”.

Có điều trùng hợp lạ lùng là linh mục Pháp cử hành thánh lễ an táng trên đất Pháp cũng chính ông đã làm lễ rửa tội cho tín đồ này năm 1947 ở Huế.

1022 - Đinh Văn Đệ
VIỆT CỘNG NẰM VÙNG TRỞ THÀNH TRƯỞNG LÃO CAO ĐÀI
Chức sắc đạo Cao Đài sinh 1923 tại Tây Ninh. Sống ở Tây Ninh (2012).

Năm 1951 từ Tây Ninh lên Sài Gòn dạy học, sau đó bị bắt đi lính Pháp.

Sau 1954 gia nhập quân đội VNCH lên tới hàm trung tá rồi chuyển qua làm thị trưởng Đà Lạt kiêm tỉnh trưởng Tuyên Đức (Lâm Đồng ngày nay), tỉnh trưởng Bình Thuận.

Từ quân sự, hành chính nhảy qua làm chính trị ứng cử vào Hạ viện thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đắc cử giữ chức Phó Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng từng qua Mỹ làm việc với Tổng thống Mỹ G. Ford.

Đùng một cái sau 30.4.75 mới lộ diện là “nội gián” cộng sản (có 2 em ruột tập kết miền Bắc, một người em khác và một chú ruột hoạt động miền Nam)!

Do gốc đạo Cao Đài nên được phân công phụ trách lĩnh vực tôn giáo này. Trở thành một trưởng lão đạo Cao Đài pháp danh Thiên Vương Tinh. Về hưu viết sách “Nói chuyện Cao Đài” năm 2007.

1023 - Nguyễn Thị Dần
NỮ ANH HÙNG BẮN MÁY BAY MỸ VỀ NUÔI LỢN
Nông dân sinh 1950 tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2011).

Năm 1967 mới 17 tuổi đã tình nguyện vào đội dân quân trực chiến phòng không bảo vệ bầu trời TP Vinh chống máy bay Mỹ đánh bom.

Trở thành xạ thủ số 1 nhận nhiệm vụ bắn khẩu 12 ly 7.

Tháng 4.1968 bị sức ép bom máy bay Mỹ thả xuống làm ngất xỉu trên trận địa. Nhưng vẫn kiên cường bám trụ đến tháng 7 bắn rơi một máy bay F4 của Mỹ. Là dân quân nữ xạ thủ súng phòng không hiếm hoi làm nên kỳ tích này nên được cho đi tham quan Liên Xô và trở thành niềm cảm hứng cho nhạc sĩ Nguyên Nhung làm ca khúc “Cô dân quân làng Đỏ”.

Sau chiến tranh trong 10 năm lần lượt làm cán bộ xã rồi chủ tịch xã. Năm 1967 được đưa đi học nghiệp vụ thì ở nhà chồng chết tai nạn để lại 4 con thơ. Học xong về lại không được bố trí công tác với lý do “không đáp ứng yêu cầu”.

Làm đơn kiện lên cấp trên nêu thành tích bắn rơi máy bay Mỹ thì bị cật vấn “bằng chứng đâu”?!

Đành chấp nhận về nhà nuôi lợn nuôi gà lo cho bầy con. Năm 1971 biết tin mình được tặng Huân chương Chiến công song cũng bị địa phương “ém” không trao. Thậm chí nửa chừng còn bị cắt mất suất trợ cấp thương binh 29% mà không nêu lý do gì hết!

1024 - Nguyễn Thị Sâm
“ĐỜI CÁT”
Nông dân sinh tại Quảng Bình. Sống ở Quảng Bình (2007).

Nguyên thành viên đội nữ pháo thủ Ngư Thủy nổi tiếng thời chống Mỹ, đội nữ pháo binh duy nhất miền Bắc thời đó. Lập nhiều chiến công nên từng được cử đi học khóa ngắn hạn tại trường sĩ quan pháo binh Sơn Tây năm 1972.

Sau ngày hòa bình, đội nữ pháo binh hoàn thành nhiệm vụ nên giải thể năm 1977.

Trở về làm thường dân không được hưởng chế độ trợ cấp nào trong khi trình độ học vấn không có, không nghề nghiệp chuyên môn nên chỉ còn biết bán mặt bán lưng cho trời trên đồng ruộng cày sâu cuốc bẫm kiếm miếng ăn thời hậu chiến quá khó quá khổ. Trong gần 90 đồng đội ngày nào nay chỉ còn khoảng 10 chị em tương đối sống được chủ yếu dựa vào chồng.

Còn mình lớn tuổi quá thì nên không chồng con lại mắc bệnh bại liệt toàn thân không tiền đi bệnh viện đành nằm chờ chết trong căn lều rách nát. Chỉ còn biết than thân trách phận: “Nghèo chi mà nghèo rứa. Đêm nằm cát vẫn còn theo lên giường”!

Giống như một nữ nhân vật cụt cả 2 chân nạn nhân chiến tranh ở Quảng Trị “thèm” một đứa con để nương tựa tuổi già trong bộ phim “Đời cát” đoạt giải lớn năm 1999 (đạo diễn Nguyễn Thanh Vân). Quảng Trị cũng là xứ cát, còn nhà văn Nguyễn Quang Lập viết kịch bản chính gốc dân Quảng Bình.




1025 - Nguyễn Văn Sửu
HY SINH 41 NĂM CHƯA CÔNG NHẬN LIỆT SĨ
Bộ đội sinh 1950 tại Thái Bình – Mất 1968 ở Thừa Thiên – Huế (19 tuổi).

Là con út trong gia đình 7 anh chị em, lên 10 tuổi thì cha mẹ đều qua đời. Đến năm 1967 gia nhập bộ đội lên đường vào Nam chiến đấu.

Chỉ một năm sau gia đình nhận được tin báo tử từ đơn vị cho biết đã hy sinh, mai táng ở tỉnh Thừa Thiên lúc đó. Xã đã tổ chức lễ truy điệu đàng hoàng và năm 1985 Nhà nước đã truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng 3.

Nhưng có điều lạ là từ đó kéo dài hơn 40 năm tử sĩ này vẫn chưa được các cơ quan chức năng chính thức công nhận là liệt sĩ nên không được hưởng chế độ trợ cấp cho thân nhân.

Hai thế hệ thân nhân đã thay phiên nhau làm đơn khiếu nại đi khắp nơi đều không được giải quyết, trả lại đơn hoặc đùn đẩy qua cho cơ quan khác, từ địa phương đến Quân khu 3, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội…

Dần dần mới truy tìm ra lý do là giấy báo tử của đơn vị khi đó chỉ gửi thẳng về cho gia đình và chính quyền xã mà “quên” gửi cùng lúc cho chính quyền huyện và tỉnh nên tên anh không có trong danh sách lưu trữ của cơ quan cấp trên có thẩm quyền chứng thực liệt sĩ!

Biết là biết vậy nhưng đến năm 2009 liệt sĩ này vẫn chưa có tên “Tổ quốc ghi công” xứng đáng.

1026 - Nguyễn Văn Thọ
NHÀ VĂN HẢI NGOẠI KIỂU KHÁC
Nhà văn sinh tại Hà Nội. Sống ở Đức (2012).

Từng là bộ đội trên chiến trường miền Nam trực tiếp tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

Sau ngày hòa bình, xuất ngũ trở về Hà Nội làm công nhân, lấy vợ sinh con.

Vợ con đùm đìa, làm công nhân lương chết đói trong thời hậu chiến bao cấp không sống nổi nên đành chấp nhận xa gia đình đi xuất khẩu lao động qua Đông Đức.

Qua Đức tưởng có cơ hội “đổi đời” thì thực tế không đơn giản, vẫn phải làm lụng đầu tắt mặt tối mới dành dụm được chút ít gửi về nuôi vợ con.

Chẳng được bao lâu lại lâm vào tình thế bi đát khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Đông Đức tan rã sáp nhập vào Tây Đức khiến bản thân để còn tồn tại phải đi làm công nhân vệ sinh… chùi nhà cầu! Trong lúc đó ở quê nhà cũng xảy ra những sự cố đau lòng làm tan nát gia đình, mất mát người thân, con cái mỗi đứa một nơi…

Bao nhiêu cảnh đời trớ trêu như thế cùng lúc đổ ập vào đẩy bản thân tới chỗ khủng hoảng sinh ra mặc cảm dồn nén, từ đó mới tự tìm cách giải tỏa bằng… viết văn từ năm 1979. Viết về những hoài niệm thời chiến tranh xen kẽ tâm sự dân Việt tha hương lắm nỗi buồn đau hờn tủi rút ra từ gan ruột hơn 20 năm lưu lạc trên đất Đức.

Thành quả là 3 tập truyện ngắn, 2 tập tùy bút và tạp văn, một cuốn tiểu thuyết thấm đẫm một phong cách thể hiện chất bi tráng dữ dội – kết tinh từ kinh nghiệm lăn lóc chiến trường - kể cả trong khung cảnh thời bình ở nước ngoài. Tất cả đều viết từ Đức đưa về in ở VN rồi lại được đích thân tác giả mang qua Đức đi… bán dạo! Có tác phẩm đã đoạt giả văn học trong nước.

Cũng từ đó trở thành một nhà văn hải ngoại thế hệ cũ hiếm hoi xuất phát từ phía bên này chiến tuyến khác hẳn đa số nhà văn hải ngoại từ miền Nam di tản và vượt biên qua Mỹ.

1027 Nguyễn Văn Tịnh
RA ĐI VÀ TRỞ VỀ VÌ MỘT LỜI THỀ
Nông dân sinh 1977 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2006).

Sinh ra từ vùng đất lửa tiền tuyến trong tranh (huyện Cam Lộ, Quảng Trị) trung bình cứ 2 gia đình có một đứa trẻ bị nhiễm CĐDC.

Gia đình mình có 4 anh em thì một đã mất sớm, 2 mắc chứng tâm thần cả ngày chỉ biết gào rú la hét. Chỉ riêng mình khá may mắn tạm xem bình thường chỉ có mái tóc chưa đến tuổi 19 đã bạc trắng hết!

Nhưng thời đó trong thôn xóm chưa ai nghe nói đến CĐDC là gì nên cứ đổ cho gia đình mình tội “làm chuyện thất đức” nên nay con cái mới ra nông nỗi này!

Không chịu nổi “tiếng ác” mà người ta vu cho, năm 1997 mới quyết tâm tìm đường đến xứ khác – Gia Lai - làm ăn cho đến ngày nào khấm khá rồi mới trở về để chứng minh cho mọi người thấy sự bất hạnh của gia đình không phải do “ác quả ác báo”.

Trên quê hương mới Tây Nguyên chí thú làm ăn lao động cực lực dần dà tự lực cánh sinh vươn lên trong cuộc sống. Rồi gặp và kết hôn với một cô gái đồng hương cũng lên đây lập nghiệp.

Khi sinh con đầu lòng năm 1999 lòng không khỏi lo âu sợ con cũng lãnh di chứng CĐDC như mình, may mà không sao con vẫn lớn lên lành mạnh. Đến đứa con trai thứ hai sinh năm 2003 cũng vậy.

Mừng rỡ không xiết chắc rằng đã xóa bỏ, đã vượt qua được “lời nguyền CĐDC” bấy giờ mới dám đưa vợ con về quê thăm cha mẹ. Thấy cảnh cha mẹ già còn phải chăm lo cho 2 đứa con điên khùng. Xót xa quá nên thuyết phục vợ đưa cả gia đình nhỏ của mình hồi cư – với chút ít gia sản dành dùm được – để sớm hôm thăm nom cha mẹ báo hiếu và giúp nuôi 2 đứa em bệnh tật.

Đồng thời cũng là cách thể hiện, giữ đúng lời thề năm xưa khi ra đi rằng sẽ trở về đàng hoàng chứng tỏ cho làng xóm biết rằng tai uơng của gia đình mình là từ hậu qủa chiến tranh chứ chẳng phải là bị trời hành trời phạt. Bằng chứng là bản thân mình vẫn sống và làm việc gây dựng cơ đồ từ 2 bàn tay trắng như ai. Bởi vậy mới đặt tên cho 2 con trai là Tây và Định nói lái là… “Tịnh đây!”

1028 - Nguyễn Văn Trại
CHẤP NHẬN CHẾT TRONG TÙ
Tù chính trị sinh 1937 tại VN – Mất 2011 ở Đồng Nai (74 tuổi).

Tham gia hoạt động chống chính quyền Cộng sản ở miền Nam sau 1975 nên bị bắt năm 1996 ra tòa lãnh án 15 năm tù giam ở Đồng Nai.

Năm 2010 phát hiện bị ung thư gan nhưng vẫn không được cứu xét cho giảm án (cộng thêm lớn tuổi) vì không đáp ứng 2 điều kiện là phải “nhận tội” và viết đơn xin ân xá.

Qua năm 2011 bệnh phát nặng nên được đưa ra bệnh viện Biên Hòa chữa trị cũng vô phương cứu vãn. Đành chuyển lại về trại thì qua đời trong khi chỉ còn 5 tháng nữa là mãn án.

Gia đình xin đem xác về nhà không được chấp thuận vì người chết vẫn còn trong thời gian thụ án!

1029 - Nguyễn Văn Tuấn
BAN NGÀY LÀM VIỆC CHO ÚC, BAN ĐÊM LÀM VIỆC CHO VN
Giáo sư đại học Việt kiều Uc sinh tại Rạch Giá. Sống ở Uc (2012).

Cha gốc Bình Định từng là vệ quốc quân chống Pháp đi Nam tiến chống Pháp rồi định cư luôn ở Kiên Giang. Lớn lên được cha mẹ cho lên Sài Gòn học.

Sau biến cố 30.4.75 theo xu hướng thiên tả cấp tiến nên có thời gian ngắn làm việc cho cơ quan chế độ mới nhưng sau đó sớm “vỡ mộng” khi ở dưới quê gia đình bị liệt vào hàng địa chủ bị tịch thu đất đai ruộng nương. Thấy khó sống nổi nên năm 1981 vượt biên qua Thái Lan rồi được Uc cho nhập cư năm 1982. Trước đó 2 năm người anh cả cũng vượt biên bị mất tích.

Trên xứ người vừa làm phụ bếp vừa học đại học y, tốt nghiệp tiến sĩ y khoa ngành dịch tễ học và di được mời dạy đại học. Bên cạnh đó mở rộng nghiên cứu qua nhiều lĩnh vực khác nữa trong đó có CĐDC Mỹ rải xuống VN thời chiến tranh.

Năm 1997 lần đầu tiên quay về quê hương thăm cha mẹ anh em. Qua đó tận mắt chứng kiến đất nước đang trên đường đổi mới cởi mở nên từ đó khi trở lại Uc đã liên tục có nhiều hoạt động giúp đỡ VN rất nhiệt tình trên lĩnh vực y học, giáo dục, khoa học qua nhiều bài viết đăng báo, in sách ở VN, tham gia hội nghị, hội thảo quốc tế tại VN hoặc về đề tài VN…

Năm 2004 đã in cuốn sách nghiên cứu khoa học đầu tiên về CĐDC in ở VN, Mỹ, Pháp...

Xem tất cả việc làm đó đơn giản như một nghĩa vụ của nhà khoa học trong tư cách một người con của quê hương – dù vượt biên! - không thể chối bỏ được: “Làm khoa học thì không có bên này hay bên kia, chỉ có sự thật mà thôi… Nhưng nói rằng làm việc cho phía VN thì có làm vì đó là quê hương tôi. Tôi rất quan tâm đến quê nhà như con thương cha mẹ mình một cách tự nhiên và đơn giản như hít thở khí trời vậy thôi… Cứ như thế, ban ngày làm việc cho Uc và thế giới, ban đêm làm việc cho VN…”

1030 Nguyễn Văn Tùng
“DŨNG SĨ DIỆT MỸ” CHỊU ÁN OAN 24 NĂM
Nông dân sinh 1942 tại Bến Tre. Sống ở Bến Tre (2009).

Đang là anh hùng “Dũng sỹ diệt Mỹ” sau 14 năm đi theo cộng sản làm xã đội trưởng kiêm bí thư đoàn ở quê hương Bến Tre thì đùng một cái một đêm cuối năm 1974 bị đồng chí mình bắt giam vì tội làm gián điệp cho địch. Vợ ở vùng tạm chiếm buôn bán lẻ nuôi 5 con cũng bị bắt luôn đưa vào vùng giải phóng điều tra.

Nỗi oan chất ngất khiến từng có lần đang đêm tìm cách trốn ra ngoài tìm đến nhà lãnh đạo cấp trên trần tình vẫn không kết quả mà còn bị bắt lại giải vào nhà giam tiếp tục.

Sau ngày giải phóng vẫn y án dù không hề được đưa ra xét xử.

Đến năm 1977 mới được phóng thích sau 4 năm 4 tháng bị giam giữ không lý do rõ ràng do di lý lên cấp tỉnh thấy không có hồ sơ, chứng cứ vụ án cụ thể.

Nhưng về nhà thì vợ đã bỏ đi rồi, đất đai cũng bị tịch thu hết nên 6 cha con đành kiếm một mảnh đất hoang trên bãi bồi bên bờ sông dựng lều nương thân làm nghề chăn vịt sống tạm bợ qua ngày.

May sao trong cảnh cùng khốn đó năm 1978 gặp được ân nhân là một phụ nữ đơn thân đã có một con vốn là chị của một bạn tù cũ đem lòng thương cảm chịu chắp nối lại 2 mảnh đời dang dở. Rồi cũng nhờ người vợ sau này khuyến khích, tìm đường kêu oan lên cấp trên trong đó có cả vị nguyên bí thư tỉnh.

Từ đó vụ án oan được lật lại hồ sơ mới tìm ra nguyên nhân sâu xa là do một số lãnh đạo xã hồi đó có tư thù với vợ cũ mình mới dựng chuyện lên như vậy! Mà thời chiến trong bối cảnh nội bộ chống địch trà trộn nên đề cao cảnh giác cao độ cộng thêm công tác an ninh điều tra quá đơn giản sơ sài đã dễ dàng vu oan giá họa cho người vô tội kể cả đồng chí trung kiên.

Cuối năm 1998 nhận được quyết định giải oan cùng niềm an ủi cuối đời có thêm được 2 đứa con nữa từ người vợ sau đã cứu vớt đời mình.

(Còn tiếp)

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

TRÁI TIM MẮC CẠN - TRẦN MẠNH HẢO


Dòng đời con nước vèo qua
Trái tim mắc cạn trong tà áo bay
Cỏn con một sợi lông mày
Mà đem buộc trái đất này vào anh !

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012

TIN THƠ


Xin giới thiệu cùng bằng hữu và bạn đọc tập thơ tình vừa in ấn tại Việt Nam :
CHO DẪU PHÙ VÂN
107 bài thơ của hoàng lộc
Tranh bìa và minh họa : Đinh Cường
Giấy phép của nhà xuất bản Hội Nhà Văn VN.
Sách dày hơn 200 trang, bìa cứng, đóng chỉ thật đẹp...
Phát hành trong Ngày Tình Nhân 14-2-2012


Bạn bè quê nhà liên lạc những địa chỉ sau đây để nhận sách biếu :
- Uyên Hà, Đà Nẵng : uyenha46@gmail.com (0903 501 551)
- Văn Bá, Sài Gòn : vanba1952@yahoo.com (0913 924 815)
- Võ Mỹ Ý, Hội An : damyvo1@yahoo.com (0510 864779)
Đã có trên giá sách
Nhà Sách THĂNG LONG
2 Bis Nguyễn Thị Minh Khai .Quận 1

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

THƠ LÊ NGỌC THUẬN NGÀY TÌNH NHÂN


NGỒI THIỀN

Tiếng cười ẩn dấu cô đơn
Trong ta tàng trử từng cơn sóng thần
Ngồi thiền mộng tréo hai chân
Phật đâu không thấy - bâng khuâng nhớ người


HOA VÔ KHUYẾT

Ngồi kiết già sao lòng ta vẫn mặn
Thấy trong đầu bông tuyết trắng lao xao
Thôi thì trả kệ kinh cùng chuông mõ
Đợi một người tên tuổi lạnh trăm năm


HÀN CHƯỞNG

Huế - cà phê ỏng ẹo
Rượu - không mấy thật thà
Ta đui lòng chột dạ
Mắt em cười quá xa

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

BÂNG QUƠ - PHAN LỆ DUNG

Có một buổi chiều
Tôi lang thang ra đường
Cố tìm một chút riêng
Có cơn gió đuổi theo
xua tan tiếng chuông chùa từ dòng sông vọng lại
Trời chiều không có con chim nào đậu trên mái nhà
Những tán cây sậm màu sà xuống
Chiếc tổ tò vò ngả nghiêng
Phía dưới
hoa bằng lăng nở
Bất chợt tôi lặp lại thói quen
nhớ ai đó
Trời sắp mưa
Con đường chạy thẳng
Tôi bước như người đi bộ thể dục
Chỉ khác thân tôi không đẫm mồ hôi
Lòng tôi đã chán chiều
Gió thổi những ngọn lá rơi xuống sông
Bên kia trời
Con chim cu màu xanh bay xiên qua phố.


Tôi trở về nhà
Loạng choạng đêm
Lặng nghe lũ chuột oán trách rần rật trên sà nhà
Tiếng mèo hoang cào nhau mộng mị
Tiếng kẹt cửa bên nhà hàng xóm
Tôi giật mình
Sực nhớ bữa cơm chiều
Có người đã say.


Trên bàn ly nước đổ
Trên tường bình hoa vỡ, nước chảy giàn giụa trong bức tranh


Căn phòng tối
Ngoài trời không có trăng
Tôi nhắm mắt cầu mong được nghe lại
Lời yêu tình tứ
Anh nói với tôi ngày mới gặp.

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

BÙA ANH - TRẦN DZẠ LỮ

Bùa anh chừ chẳng hiển linh
Em đi một nước-Nghi Đình còn đâu?
Mùa xuân rớt lại bên cầu
Bóng anh với bóng nước sầu cùng trôi…
Bùa yêu, ngải nhớ xa rồi
Tháng giêng còn lại mảnh đời ngu ngơ…
Còn gì đâu để tôn thờ
Sắc phong tình ái đã lờ mờ phai ?
Bùa anh hết hiển linh rồi
Em đi một nước-một trời tà huy…


Trần Dzạ Lữ
( Xuân Nhâm Thìn 2012 )

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 -2011 ( KỲ 101)



NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1011 - Cung Tiến
PHỔ NHẠC THƠ TÙ CẢI TẠO
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Cung Thúc Tiến sinh 1938 tại Hà Nội. Sống ở Mỹ (2012).
Một con người tài hoa đa năng được xem là một thần đồng âm nhạc với 2 ca khúc nổi tiếng “Thu vàng” và “Hoài cảm” sáng tác từ năm mới 15 tuổi ở Hà Nội.
1954 di cư vào Nam đi du học Uùc và Anh về ngành kinh tế nhân đó tranh thủ học thêm nhạc lý ở nước ngoài. Từ đó các sáng tác nhạc tiếp theo tuy ít song đều là những tác phẩm đạt trình độ chuyên môn cao nội dung trí thức như “Lệ đá xanh”, “Mắt biếc”, “Nguyệt cầm”…
Ngoài ra còn viết lý luận phê bình văn học, dịch tác phẩm văn học kinh điển Nga của Dostoievski và Solzhenitsyn (bút danh Thạch Chương).
Sau 1975 định cư tại Mỹ tiếp tục sự nghiệp âm nhạc với bước ngoặt bắt đầu đưa tác phẩm của mình trầm mình trong không khí thời sự từ biến cố 30.4 bằng cách phổ nhạc 12 bài thơ làm từ trại cải tạo của Thanh Tâm Tuyền trong tập “Vang vang trời vào xuân” 1981 (trước kia từng phổ thơ TT Tuyền bài “Đêm” và “Lệ đá xanh”):

“… Chống cuốc đứng vững chân
Trên mảnh đất khốn khổ
Thở hít đến vô cùng
Mãi mê ngắm hồng rợ

Vang vang trời vào xuân
Ta bật kêu mừng rỡ
Ơi bè bạn xa xăm
Tim ta cũng cháy đỏ
Rực tựa bóng trăng rằm.”

Tiếp đó năm 1992 phổ nhạc bài thơ trường thiên “Ta về” của Tô Thùy Yên cũng làm từ trại cải tạo:
“… Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.

Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ.
…..
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh…”.

Cả 2 tác giả đều là bạn thân thời làm tạp chí Sáng Tạo và 2 tác phẩm đều được sáng tác theo phong cách nhạc giao hưởng kết hợp hát, nói, ngâm và hòa nhạc thính phòng. Riêng “Vang vang trời vào xuân” được công diễn hát đệm dương cầm năm 1985 tại Thủ đô Washington.
Ngoài ra còn làm đồng dịch giả ra tiếng Anh cuốn hồi ký chính trị “Hồ sơ mật dinh Độc Lập” của TS Nguyễn Tiến Hưng nguyên Cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Sau đó quay về với dòng âm nhạc dân tộc, viết tấu khúc “Chinh phụ ngâm” 1987, tập trung nghiên cứu làn điệu quan họ Bắc Ninh đưa vào nhạc giao hưởng đồng thời lấy cảm hứng từ đó để viết tác phẩm âm nhạc đương đại “Lơ thơ tơ liễu buông mành” 2003…

1012 - Ngô Thị Thắt
NỮ PHÁO BINH ANH HÙNG ĐI ĂN MÀY
Nông dân sinh 1951 tại Quảng Bình. Sống ở Quảng Bình (2011).
Mới 16 tuổi đã xung phong gia nhập đội nữ pháo binh Ngư Thủy, đội nữ pháo binh duy nhất miền Bắc được thành lập năm 1967 nổi tiếng anh hùng bắn rơi máy bay Mỹ.
Là em út của đội (từ 85 – 91 chiến sĩ gái) lại nhỏ con nên được phân công làm trợ thủ tiếp đạn từng được đưa vào bài vè truyền thống của đội: “O Thắt 16 tuổi/ Viên đạn nặng 16 cân/ Dù đạn cao ngang người/ Thắt càng thêm vững chí.”
Sau chiến tranh, đội giải thể năm 1977, tất cả trở về làm dân thường không được hưởng bất cứ chế độ nào kể cả bị thương tích trong chiến trận.
Bản thân thiếu học, không nghề nghiệp nên phải bám theo ruộng đất làm lụng vất vả vẫn không đủ ăn. Rồi sinh 2 con ngoại hôn mà 2 con đều bị tâm thần càng đẩy cả nhà vào cảnh khốn cùng. Cuối cùng chỉ còn con đường… đi ăn mày nuôi con: “Không nghề nghiệp, không chồng con, nghèo quá khổ quá không có chi ăn thì đi ăn mày có chi xấu có chi sai?”
Không chỉ mình mình mà còn một số đồng đội cũ cũng đành làm như vậy.
Đầu những năm 2000 sau khi vụ việc được đưa lên báo Lao Động, cả nước mới bị đánh động tìm cách giúp đỡ, hỗ trợ tiền bạc, xây cho nhà tình nghĩa, xây tượng đài Nữ pháo binh Ngư Thủy… mới chấm dứt thảm cảnh “bôi đen anh hùng” này!

1013 - Nguyễn Văn Hải
CHUYÊN GIA GỠ BOM MÌN SINH NGHỀ TỬ NGHIỆP
Thường dân sinh tại An Giang – Mất 2009 ở Đồng Tháp.
Sau chiến tranh nổi tiếng là một “thợ gỡ mìn” khắp Nam Bộ, không chỉ gỡ bom mình ở quê nhà huyện Tri Tôn mà còn đi đến các tỉnh Kiên Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Bến Tre làm việc tháo gỡ vô vàn quả bom mình còn nằm yên dưới lòng đất. Nhờ chịu khó nghiên cứu kỹ các loại bom mìn, lực nổ, sức công phá, cách chế tạo, nguyên lý nổ, độ nguy hiểm, độ rủi ro để từ đó tìm ra phương pháp, kinh nghiệm chống nổ, vô hiệu hóa nó.
Ngay cả các đội gỡ bom mình của bộ đội công binh biết tiếng cũng phải mời tham gia công tác này.
Nhưng trong một chuyến đi như vậy với bộ đội năm 2009 ở Đồng Tháp gỡ 4 quả bom, đến quả thứ tư đang tháo ngòi nổ thì gặp loại ngòi nổ tự động ít gặp phát nổ chết ngay tại chỗ!
Trước đó có một đệ tử ruột gỡ quả đạn cối 81 ly bị đạn phát nổ ngay trên tay chết không toàn thây. Bà vợ đang ở gần đó cũng thiệt mạng luôn.
Còn người em trai từng có thời gian theo anh học nghề sau đó chỉ đi gỡ thêm 9-10 quả bom nữa ở Sóc Trăng và Bến Tre rồi thôi, giải nghệ về nhà đánh cá, nuôi gà sống qua ngày chứ không dám làm nghề giỡn mặt tử thần nữa.

1014 - Nguyễn Văn Hoàng
2 VỢ CHỒNG CHỈ… 1 CÁNH TAY!
Nông dân sinh 1950 tại Bến Tre. Sống ở Bến Tre (2007).
Năm 1966 đi bộ đội đánh Mỹ.
Năm 1972 bị thương nặng phải giải phẫu cắt cụt 2 tay.
Sau ngày hòa bình là thương binh về quê cũng phải sống bám vào ruộng vườn làm được gì thì làm. Dù vậy vẫn được một cô thôn nữ cảm phục đem lòng thương yêu nhận làm chồng.
Nhờ có vợ đỡ đần nên việc làm ruộng vất vả cũng qua ngày đoạn tháng.
Không ngờ tai ương lại đến nữa khi ngườøi vợ đi chặt tre không may bị tai nạn… đứt mất một cánh tay!
Thế là từ đó 2 vợ chồng chỉ còn 1 tay lành lặn coi như phải “bao tiêu” hết mọi việc khó khăn từ làm đất, cấy lúa đến đào hố trồng cây ươm cành...
Thế mà vẫn chung sức làm được bao việc lao động khó nhọc để sống còn kể cả những việc mỗi người có đủ 2 tay làm cũng không xuể như tước xơ dừa, san lấp hố bom làm nhà, khai hoang lập vườn cây ăn trái… Vợ tận dụng một tay còn lại làm xoăn xoắt, còn chồng thì làm bằng.. 2 cùi tay tới mức chai sần rắn như đá!

1015 - Nguyễn Văn Hồng
LỌN TÓC KỶ VẬT 40 NĂM
Cựu chiến binh sinh khoảng 1943 tại Hà Tĩnh. Sống ở Hà Tĩnh (2008).
Năm 1964 trướùc khi lên đường vào chiến trường miền Nam đã thề nguyền hứa hẹn với người yêu cùng quê ngày chiến thắng trở về cả 2 sẽ làm lễ kết hôn. Người yêu trao tặng kỷ vật mang theo là một lọn tóc nhỏ xén ra từ mái tóc mình được kết lại thành hình số 8 dễ thương.
Từ đó mang theo kỷ vật bất ly thân trong bao trận địa trên bao chiến trường khốc liệt, ấp ủ nằm gọn sát trái tim người chiến sĩ luôn kề cận cái chết trong gang tấc.
May mắn cuối cùng cả người lẫn kỷ vật vẫn còn nguyên vẹn sau chiến tranh để chàng trai vội vã mang về tìm người yêu chuẩn bị làm lễ cưới.
Nhưng đâu ai ngờ người yêu đã hy sinh trước đó 7 năm rồi, chính là tiểu đội trưởng Võ Thị Tần của tiểu đội 10 cô gái liệt sĩ bị bom Mỹ vùi dập tại ngã ba Đồng Lộc huyền thoại năm 1968. Nhưng ở quê nhà không ai dám báo cho anh biết!
Thế là “người chồng không bao giờ cưới” đành nghẹn ngào mang kỷ vật về nhà đặt lên bàn thờ thay cho quà cưới mà từ đó anh cũng thề là không sẽ không có lần thứ hai cho mình .
Món kỷ vật vẫn ở đó suốt 30 năm nữa mãi đến năm 2005 mới được chuyển cho Nhà lưu niệm Ngã ba Đồng Lộc trưng bày cho mọi người thắp hương khấn nguyện. Nhưng với chủ nhân của nó còn sống thì lọn tóc theo mình 40 năm ấy những sợi tóc của nó vĩnh viễn không bao giờ bạc.

1016 - Nguyễn Văn Hùng
MỐI TÌNH PHÁP - VIỆT KHÔNG NƠI NÀO CÓ ĐƯỢC
Nhà hoạt động xã hội sinh 1956 tại Sài Gòn – Mất 2007 ở TPHCM (52 tuổi).
Trước 1975 là con nhà giàu nhưng bị rơi vào tệ nạn nghiện ngập ma túy nên sau ngày giải phóng thường xuyên bị bắt vào trại cai nghiện.
Sau nhiều lần đi cai nghiện như vậy rồi được tham gia các khóa học đả thông tư tuởng, huấn nghiệp đã từ bỏ được ma túy để chuyển sang tham gia công tác xã hội giúp đỡ trẻ em đường phố, nạn nhân ma túy trở về với cuộc sống bình thường. Năm 1992 được sự giúp đỡ của tổ chức nước ngoài đã lập ra Nhà mở Thảo Đàn làm cơ sở nuôi dạy trẻ em đường phố gom nhặt từ các nơi về.
Đến năm 2004 rời Thảo Đàn chuyển qua lập nhóm tình nguyện viên Nụ Cười hướùng đến hỗ trợ đối tượng nạn nhân HIV – AIDS.
Công việc đang dang dở thì giữa năm 2007 bùng phát bệnh ung thư gan giai đoạn cuối nằm chờ chết. Thật ra bị phát hiện bệnh từ lâu song cố giấu mọi người vì sợ ảnh hưởng công việc trong khi bản thân nghèo mạt lại không vợ con nên không có điều kiện tối thiểu để chữa bệnh.
Trong giai đoạn cuối đời đó may mắn cũng có được một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ngắn ngủi nhưng vô cùng lạ lùng đã đem lại cho người sắp chết những nụ cười cuối cùng – một tình yêu kỳ diệu. Từ nữ đạo diễn Pháp Leslie Wiener 56 tuổi (lớn hơn 5 tuổi) vốn đã quen nhau 13 năm nay.
Nữ đạo diễn này từng đến VN làm một số bộ phim tài liệu về nạn nhân CĐDC, trẻ em đường phố… qua đó đã quen biết với anh. Từ quan hệ hoạt động cùng chí hướng phục vụ cộng đồng hướng tới các đối tượng bất hạnh, tình cảm đồng điệu, mến phục tấm lòng thiện nguyện dần dần chuyển qua tình yêu thầm lặng (bà đã góa chồng).
Nhưng tình yêu đó chỉ chính thức bùng nổ khi được tin người yêu mắc bệnh nặng khó qua được, bà đã lập tức bay qua TPHCM tự nguyện làm người chăm sóc người yêu tận tình như một người vợ lo cho chồng. Chẳng những thế còn dự định tiến hành lễ cưới vào ngày 4.1 sang năm 2008 cũng chính là ngày sinh của cả hai người (định mệnh khéo sắp đặt!).
Tuy nhiên cả hai không thể chờ đến ngày đó được bởi bệnh ngày càng trầm kha nên ngày 2.10.2007 hai người quyết định tổ chức lễ đính hôn ngay trong bệnh viện nơi chú rể phải trải qua những giờ phút hấp hối cuối cùng.
Chỉ hơn một tháng sau thì cuộc tình kết thúc ở nghĩa trang với đoàn người đưa tang đa số toàn trẻ em đường phố đi chào vĩnh biệt một người anh, người cha, người thầy thân thương.

1017 - Nguyễn Văn Lý
BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN VÀO TÙ RA KHÁM NHIỀU NHẤT
Linh mục sinh 1946 tại Quảng Trị. Bị giam ở Hà Nam (2012).
Cuộc đời học đạo và phụng vụ gắn liền với giáo phận TP Huế. Sau 1975 được xem là đệ tử thân cận của cố Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, sau 75 từng làm thư ký cho cố tổng giám mục.
Sau khi TGM Nguyễn Kim Điền qua đời năm 1988, bản thân bắt đầu có những hoạt động chống chính quyền cộng sản đòi quyền tự do dân chủ, tự do tôn giáo. Liên tục hô hào giáo dân phản đối chính quyền, tham gia lập nhóm, lập đảng chống Cộng… Vì vậy đã bao lần bị bắt ra tòa vào tù rồi được các tổ chức nhân quyền vận động cho giảm án thả ra vẫn tiếp tục lao vào cuộc đấu tranh hăng say không mệt mỏi, cụ thể:
+ 1977 – 1978 ở tù hơn một năm.
+ 1983 – 1992 ở tù hơn 8 năm tại Thanh Hóa và Nam Hà.
+ 2001 – 2004 lại lãnh án 15 năm tù sau được ân xá với điều kiện quản thúc tại địa phương.
+ 2007 thêm án 8 năm đưa ra Hà Nam giam giữ. Năm 2010 do mấy lần bị sốc tim nên được tạm tha cho về ở Tòa Tổng Giám mục Huế để chữa bệnh song vẫn tranh thủ đi ra ngoài hoạt động chống chế độ nên giữa năm 2011 bị bắt đưa trở lại nhà giam Hà Nam.
Đặc biệt trong phiên tòa năm 2007 đã xảy ra sự cố “bịt mồm” trước tòa hết sức hi hữu do bản thân lớn tiếng “đả đảo” khiến viên cảnh sát đi kèm sợ quá bèn tự phát thò tay ra trước bịt miệng bị can! Cảnh này bị chụp ảnh lan truyền khắp thế giới xem như một biểu tượng cho tình trạng cấm tự do ngôn luận tại VN.
Đã được 2 tổ chức nhân quyền ở Czech và Đức trao giải (khiếm diện) đấu tranh cho tự do dân chủ.

1018 - Nguyễn Văn Nam (1)
LẬP QUỸ KHUYẾN HỌC ĐẦU TIÊN
Bộ đội về hưu sinh 1927 tại Long An. Sống ở Long An (2010).
Trải qua 9 năm đi bộ đội kháng chiến chống Pháp ở huyện Cần Đước quê nhà.
Đến 1954 không đi tập kết ra Bắc mà được lệnh ở lại nằm vùng chống chế độ Ngô Đình Diệm. Cuối năm 1955 bị bắt giam ở nhà tù Tân Hiệp (Biên Hòa) được một thời gian ngắn tham gia tổ chức cuộc phá nhà lao vượt ngục quy mô giải thoát cho khoảng hơn 400 tù cộng sản.
Bản thân quay về quê nhà Cần Đước chỉ huy đại đội rồi tiểu đoàn đánh Mỹ, 6 lần bị thương trong đó có lần bị trúng đạn ngay miệng khiến có thêm biệt danh “Sáu Méo” ngoài bí danh “Sáu Nam”.
Sau ngày thống nhất đất nước, làm huyện đội trưởng Cần Đước.
Năm 1985 về hưu vẫn còn ham hoạt động bằng cách xoay qua làm công tác khuyến học, từ năm 1991 đã bỏ tiền túi dành dụm ra lập Quỹ Khuyến học cho học trò nghèo ở Cần Đướùc trong khi Hội Khuyến học VN năm 1996 mới ra đời, sau đó mới đến Hội Khuyến học Long An 1998.
Không chỉ thế, còn gây bất ngờ cho mọi người khi vào đúng dịp Tết 2006 đã viết sẵn một bản di chúc đưa ra trước bàn thờ tổ tiên cho vợ con đọc và ký tên vào đồng ý cho mình sau khi qua đời được… hiến xác! Với lý do giản dị chân chất của dân miệt vườn: “Sống được đến giờ là quá đạt yêu cầu, ráng làm thêm việc gì có ích coi như lời thêm việc đó”!

1019 - Nguyễn Văn Nam (2)
“CỌP SÀI GÒN

Việt kiều Uùc sinh tại Sài Gòn. Sống ở Uùc (2005).
Là dân giang hồ thứ thiệt ở TPHCM nên sau 1975 bị công an truy lùng tệ nạn xã hội khiến phải tìm đường vượt biên qua Thái Lan, sau đó chuyển qua định cư Uùc năm 1980.
Trên vùng đất mới lập tức bắt tay vào khai thác “thế mạnh” xã hội đen sẵn có của mình để gây dựng cơ đồ mới, mở rộng mạng lưới buôn lậu ma túy, ăn cướp, bắt cóc và cả giết người. Được tôn xưng là đại ca “Cọp Sài Gòn” lừng danh vùng Nam Úc.
Vì thế bị cảnh sát Uùc mở chiến dịch tấn công bắt giữ. Khi bị bắt vào tù cũng nhanh chóng nổi tiếng là tù nhân nguy hiểm nhất khiến phải chuyển qua nhiều trại giam kiên cố canh phòng cẩn mật hơn. Dù vậy cũng đã 2 lần có âm mưu tổ chức trốn ngục song bị phát giác kịp thời.
Mãn hạn tù vào giữa năm 2006.

1020 - Nguyễn Văn Phương
5 CON GÁI ĐIÊN
Nông dân sinh 1940 tại Quảng Nam. Sống ở Quảng Nam (2008).
Năm 1968 theo cộng sản đánh Mỹ, làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí ra chiến trường.
Một năm sau lấy vợ trong chiến khu sinh con gái đầu lòng cùng lúc bản thân bị địch bắn gãy chân bắt làm tù binh giam ở Hội An.
Năm 1970 được phóng thích trở về quê gặp lại vợ con mới thấy con gái đầu lòng có biểu hiện tâm thần bất ổn, tâm trí khờ khạo nói năng lảm nhảm không đầu không đuôi.
Từ đó đến cả sau ngày kết thúc chiến tranh lần lượt sinh thêm 4 con gái nữa đều mắc chứng điên điên khùng khùng như vậy. Suốt ngày cả 5 chị em không làm được việc gì mà chỉ phá phách nhà cửa tanh bành, đánh lộn lẫn nhau và đánh cả cha mẹ nữa. Cha mẹ chỉ biết cắn răng chịu đựng. Riêng người cha thương binh 3/4 còn phải lo làm ruộng nuôi bầy con điên.
Năm 2003 mới được biết các con mình đều chịu ảnh hưởng CĐDC, bấy giờ mới được chứng nhận cho hưởng trợ cấp nạn nhân CĐDC.
May sao đến đứa con út thứ sáu vẫn là gái song lớn lên học hành bình thường như mọi người. Ra trường làm cô giáo tiểu học rồi lấy chồng ở riêng.
Tuy nhiên đến đó thì vợ mất để lại một mình mình tiếp tục chịu đựng 5 đứa con thay phiên nhau hành hạ người cha già. Đã vậy, cô con gái út lấy chồng bị đổ vỡ hạnh phúc phải quay về tá túc nhà cha mẹ chấp nhận sống chung đụng với 5 người chị mất trí biến căn nhà nhiều khi thành như một địa ngục!

Dù vậy vẫn không chịu đưa 5 con vào trại tâm thần như lời hứa với người vợ quá cố là không bao giờ bỏ rơi con mình: “Tôi vốn chịu khổ quen rồi… Hơn nữa, tôi không thể sống xa tụi nó được.”
(Còn tiếp)

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI (KỲ 2 ) - VÕ CHÂN CỬU

TU THƠ
Những đọt lá trạng nguyên đã bắt đầu nhuốm đỏ; hoa dã quỳ ven giậu vàng rơn…Từ phút giây hiện hữu, các thi sĩ vẫn muốn soi tìm đến ngọn nguồn của tạo vật. Rồi diễn tả nó bằng âm điệu, ngôn ngữ của riêng mình.

Nếu có ai hỏi những giây khắc hiện tại đang làm gì ? Có thể họ sẽ chọn câu trả lờicho xong chuyện : “đang đi…tu”.
Giữa thời đại khủng hoảng các giá trị tinh thần, phía đầu dây bên kia có khi lại vang lên câu: Hay quá, vậy cho tôi theo với !
Hóa ra từ thuở sơ khai, “tu” đã là một nhu cầu thiết thực của mỗi con người từ khi họ bắt đầu ra khỏi bụng mẹ và dần dần giã biệt năm tháng ấu thơ thiên đường. Tu, rõ ràng là một nhu cầu có thực, để mỗi người tìm về với bản thể, hạnh phúc của riêng mình. Như vậy, ai đó nếu muốn theo, liệu có theo nổi không !
Thật đáng tiếc khi người đời và sách vở vẫn chỉ hiểu “tu” như khái niệm gắn liền với tôn giáo. Các từ điển tiếng Việt vẫn cho rằng: tu là tách mình ra khỏi đời sống thường ngày theo giới luật của một tôn giáo ! Do vậy với nhiều người, theo quan niệm tôn sung vật chất , khái niệm “tu” thường đi kèm với mất mát. Nó bắt đầu bằng chữ “t” nên là hậu quả của chuỗi trần tục: tình, tiền, tội, tu, tù, tự tử…Người đi tu coi như từ bỏ những “sung sướng” trên cõi đời ! Thống kê thế giới cho thấy: 2/3 con người sống ở đời đều theo một tôn giáo nào đó. Học thuyết Marxism khi phổ biến cũng đã trở thành một thứ tôn giáo, ngày càng trở nên mù quáng. Kể cả nhiều nhà phê bình văn học thuộc loại hàng đầu ở Việt Nam hôm nay, khi tranh biện cũng liền cất cao khẳng định: chúng ta là những người duy vật biện chứng !
Chối từ giáo điều
Giai đoạn 1968-1975, các thi sĩ Miền Nam vẫn là những người muốn chứng tỏ trước tiên rằng mình không phải là người của các giáo điều ! Bằng cách nào ?
Tu, trước tiên là phải từ bỏ nhục dục xác thịt. Năm 1973 thi sĩ Nguyễn Đức Sơn từ núi rừng Bảo Lộc, đang cạo đầu, mặc áo nhà sư xuống tìm tôi, khoe bản thảo tập “Tịnh Khẩu” sắp giao thấy Thanh Tuệ, NXB An Tiêm in. Trong đó có một bài thơ chỉ hai câu, nhưng là một sự phá cách trong kỷ thuật thơ, cũng là nhát dao đâm vào cõi thần quyền:
Thầy tu
Đ…
Những năm tháng này, sức mạnh xã hội được chợ đời và báo giới tổng kết thược về 4 nhóm người: nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng ! Trước đó 2 năm, S., một nhà thơ xứ Huế, quen tôi ở Quy Nhơn, lúc này mới “dấn thân” vào Sài Gòn làm thư ký tòa soạn cho một tạp chí văn nghệ chuyên hô hào đấu tranh. S cố tình đem tôi ra mỉa mai: Bây giờ ngày càng xuất hiện nhiều bút danh như…thầy tu !
Lúc này, tôi đã bắt đầu đăng thơ thường xuyên trên các tạp chí. Tôi lại nhà in trên đường Phan Thanh Giản, nơi tạp chí mượn địa chỉ làm tòa soạn, cả hai đi uống cà phê, anh ta cười hề hề: tôi đâu nói cậu ! Về sau tôi mới biết lúc đó y đã vào đảng. Nên chẳng ngạc nhiên khi Trần Tuấn Kiệt, mặc dù lúc này vẫn mê mẩn: Hỡi người con gái bến Tân Quy/ Nàng hát ta nghe tiếng hát gì…nhưng lúc cao hứng vẫn tuyên bố: sẽ đứng ra lập một “Đạo” mới !
Làm “thầy” là điều tôi chưa bao giờ nghĩ tới (đến hôm nay tôi vẫn chưa hề được làm lễ quy y hay rửa tội). Nhưng “tu” vẫn là một nhịp thở khá gần gũi. Bạn tôi có khá nhiều nhà tu, và những lúc tôi cạn túi, các “thầy” vẫn tới nhà, móc tiền ra đưa tôi đi mua đồ ăn mặn.
Một người bạn, anh Hồ Ngạc Ngữ, trong những ngày trốn lính cũng nhiều lần tìm cách độ than dưới những mái chùa. Nhưng Ngữ cũng đã xuất thần làm ra bài thơ “Tâm Ảnh” chỉ có 3 câu, nhưng rất sâu lắng:
Vì sao người đi tu
Bỏ vầng trăng biền biệt
Chết dưới đáy sông thu!
Tôi từng hỏi Ngữ sao lựa chữ “người” mà không phải là “nàng” ? Ngữ nói : “chỉ như vậy là người đọc sẽ cảm được !” Thì ra với cõi đạo cũng như cõi đời, nhà thơ luôn nhận ra cái đẹp gắn với niềm thánh thiện. : Như với Nguyễn Tất Nhiên : Em hiền như Ma Seour….
Không dễ
Người ta có thể lý giải: khi thời cuộc phô nhiều cảnh khốn nạn, con người mất niềm tin, thì họ lại đi tìm sự cứu rỗi ở những niềm linh thiêng. Với nhà thơ thì không hẳn hoàn toàn như thế. Trước tiên họ muốn tìm sự yên bình. Mà cái đẹp thì luôn là vĩnh cửu. Do vậy sau những giờ lây lất, đánh vật với dòng đời, bù khú với bạn bè xong, họ vẫn có xu hướng tìm tới một chốn thiên nhiên yên bình của riêng mình. Họ ít dựa vào một đấng tối cao cứu rỗi. Những năm này, ra Đà Nẵng, tôi vẫn thường hẹn với Vũ Hữu Định ở nhà Đoàn Huy Giao ở vùng biển Sơn Trà phía bên kia cầu sông Hàn, cạnh các Tổ Đình của các tu sĩ Phật giáo ở chùa Hưng Quang đường Minh Mạng mà tôi quen hồi ở Sài Gòn. Căn nhà khuất trong những rừng dương và cồn cát. Định vẫn hay tá túc ở đây. Vợ Giao qua đời đã mấy năm, lúc này anh sống một mình, nuôi con. Chúng tôi uống rượu xong, nằm mỗi người một góc nhà, nghe tiếng song vỗ rì rào ngoài bãi. Chính từ lúc này, Vũ Hữu Định đã biểu lộ suy nghĩ của mình qua những câu thơ về đạo và đời, mà sau này anh đã đưa vào trong “Bài thơ năm 41 tuổi (1981)”, tiên tri tổng kết cuộc đời mình:
…“Thần thánh trăm ông,
Chẳng phục ông nào.
Ông nào cũng tốt,
Ông nào cũng tào lao”.

Có người phân tích vùng đất Nam Trung bộ (từ đèo Hải Vân trở vào) là nơi trực tiếp va chạm giữa các nền văn minh Trung Hoa, Ấn Độ và các nước Nam Đảo (hệ văn minh Phù Nam), lại từng xảy ra các trận chiến ác liệt giữa các bộ tộc, vương triều; núi cao sát biển bày cảnh thiên nhiên kỳ bí và hùng vĩ. Nên con người ngoài xu hướng hiếu học để chiến thắng thiên nhiên và thiên tai, còn nẩy sinh xu thế đạo học nhằm giải quyết sự xung đột giữa con người và nghịch cảnh xã hội. Tính tình họ, vì vậy trở nên cực đoan, tin vào điều gì thì cho rằng đó là chắc nịch, tìn cách đi tới tận cùng khám phá. Từ đó nên trong thơ, có người sa vào tìm sự kỳ bí của âm thanh, có khi quên hẳn ngữ nghĩa. Ngôn ngữ diễn đạt thành vần điệu có khi trở thành một loại bùa chú tôn giáo. Ở Quảng Nam, Đà Nẵng lúc này, xu thế đó biểu lộ rất rõ trong những bài thơ “chơi âm thanh”. Như của Phạm Phú Hải trong âm hưởng Thiền ám ảnh với âm “A,AA,AAA,AAAA…(tựa một bài thơ) Hay với A Khuê trong âm hưởng những điệu Thánh Ca:
Ta là không bóng khô.ng hình nàng ơi
Sao ta đày ải cuộc đời trăm nơi
Ta còn đây hay ta mất hút
Trong nhà lớn bao la đất trời.

Và cả Nguyễn Lương Vỵ cho đến tận bây giờ với sự mải miết đi tìm những “thất huyền âm”, “lục huyền âm”…Có thể đó là một cách “tu” trong âm điệu và ngôn ngữ của các nhà thơ.
Còn tôi, sau những ngày nghêu ngao ở Đà Nẵng, lại ngược vào những mảng vườn xanh êm đềm bên dòng Trà Khúc Quảng Ngãi, với các anh Khắc Minh, Vương Thanh, Trần Thuật Ngữ…Rồi những mặt đầm sóng vỗ của đất Quy Nhơn, Nha Trang…Hơn lúc nào hết, giữa thiên nhiên và con người cần có sự hòa điệu. Và âm điệu của thơ ca phải kết được nhịp mới cho sự hòa điệu này. Nếu chuyên “tu”, chỉ đi vào một cõi, không khéo rơi vào cảnh “tẩu hỏa nhập ma”…Tu…thơ cũng phải cho đúng “pháp”!