Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

CÓ THỂ - TRẦN DZẠ LỮ

Có thể em là Tần phi xưa
Để anh đứng đợi đã bao mùa
Ai vô trong Nội ôm niềm nhớ
Ai ở ngoài thành hứng gió mưa?

Có thể đêm trăng cũng bằng thừa
Khi tình đứt đoạn,xót xa đưa…
Anh ở bên ni sầu bấn loạn
Cấm Thành dấu ngọc đã buồn chưa?

Có thể anh là vua-ngu-ngơ
Qua thành hát dạo mấy câu thơ
Người đời đâu mấy ai tri kỷ
Chiều hỡi! Ai về nơi dấu xưa?

Có thể là em biết đợi chờ
Ngọc ngà trong tiếng nói như mơ
Đường bay số phận:Thiên tình lụy!
Nên vẫn đăm chiêu mãi đến chừ…

Có thể anh buồn như củi khô
Bên thành tắt nắng một thu xưa
Ai cùng chúa Thượng say men rượu
Để mộng anh phơi áo hải hồ?

Tần phi ! Tần phi còn bơ vơ
Một ngôi sao lẻ đến không ngờ
Đêm nay ta vẫn chôn chân nhớ
Em cấm cung rồi em biết chưa?

Trần Dzạ Lữ
( SàiGòn , tháng 3 năm 2012 )

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 106 )


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
1061 - Chị Nga
GIA ĐÌNH “XƯƠNG THỦY TINH”
Lao động nghèo người khuyết tật sinh khoảng 1963 tại miền Nam. Sống ở TPHCM (2012).
Bản thân và anh trai cùng em gái song sinh từ khi sinh ra đã mắc chứng bệnh “xương thủy tinh” tức xương dễ gãy, vỡ không thể đứng thẳng người mà phải lết đi, thường xuyên phải nẹp những chỗ xương gãy. Nhưng gia đình nghèo không có phương tiện chạy chữa thuốc men cho đỡ hơn.

Đã vậy, gặp lúc chiến tranh khốc liệt cả 3 được cha mẹ bỏ vào quang thúng gánh mang chạy tránh bom đạn rồi thất lạc. Cuối cùng cả 3 được lính VNCH tìm thấy trong rừng cao su mới đem vào cho trại mồ côi Công giáo ở Thủ Đức (ngoại vi TPHCM bây giờ) nuôi.

Sống ở trại mồ côi đến năm 1988 em gái song sinh cũng do bị “xương thủy tinh” gãy làm trượt té chấn thương sọ não qua đời. Còn lại một mình đi học văn hóa (tốt nghiệp lớp 12) đồng thời lo chăm sóc cho anh trai vừa bị “xương thủy tinh” vừa thiểu trí năng không tự lo được cho bản thân.

Đầu những năm 1980 hai anh em được chuyển đến trại mồ côi Thị Nghè vẫn ở TPHCM. Tại đây gặp được người yêu cũng là trẻ mồ côi có cha mẹ bị trúng đạn chết trong một trận càn, riêng mình thì bị thương vào chân thành tật đi khập khiễng.

Từ đó cả hai cùng đưa ông anh thiểu trí năng rời khỏi trại mồ côi ra ngoài sống riêng rồi làm lễ cưới năm 1999. Sau đó gia đình nhỏ 3 người bắt đầu lao vào cuộc kiếm sống ngoài đời vất vả.

Ban đầu vợ làm nghề thêu may học được từ trại mồ côi, chồng đi bỏ hàng và phụ việc nhà cho vợ. Sau một thời gian mối hàng may ít, vợ phải ngồi xe lăn đi bán vé số (chồng phải bế lên xe lăn) ban ngày, tối về mới may vá hàng gia công.

Thế rồi có thai con đầu lòng định bỏ đi vì sợ lại mắc bệnh “xương thủy tinh” di truyền thành què quặt tội nghiệp nhưng may siêu âm thấy vẫn bình thường nên bác sĩ khuyên giữ lại. Quả thật vậy, đứa con trai lớn lên lành mạnh khỏe khoắn.

Đến cháu trai thứ hai cũng tưởng vậy ai ngờ cháu lên một tuổi mới phát hiện dính bệnh như mẹ và cậu phải đi bệnh viện nẹp tay hoặc nẹp chân thường xuyên mỗi khi xương bị vỡ, thời gian nằm bệnh viện còn nhiều hơn ở nhà! Tuy nhiên rồi thì cả 2 vợ chồng đều hầu như không còn ngạc nhiên gì mấy trước số phận đã quá quen rồi: “Trời cho thế nào mình phải nhận vậy thôi.”

Có khi cả 2 mẹ con cùng đi viện bó xương, còn ở nhà mỗi khi cần di chuyển thì con lết phía trước và mẹ lết phía sau để còn chăm con khỏi bị té ngã nữa!

1062 - Dương Kiền
MỘT THỜI “VĂN HỌC”
Nhà thơ, nhà viết kịch, luật sư Việt kiều Na Uy sinh 1939 tại Huế. Sống ở Na Uy (2012).
Năm 1962 còn là sinh viên Luật ở Sài Gòn tham gia trong phong trào sinh viên trí thức đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm đã cùng một số bạn bè cùng trang lứa sáng lập tạp chí Văn Học lo phụ trách phần nội dung (cùng Phan Kim Thịnh làm chủ nhiệm chịu trách nhiệm quản lý chung, sau chuyển dần thành bán nghiệp san).

Với tinh thần và lý tưởng tiến bộ của lực lượng sinh viên trí thức “dấn thân” thời này, đã xây dựng nội dung báo vừa có tính thời sự thiết thân đề cập đến các vấn đề chính trị – xã hội – văn hóa thực tế nóng bỏng vừa nâng cao trình độ kiến thức cả người viết lẫn người đọc. Tất cả đều nằm trong chủ trương xây dựng một xã hội miền Nam không Cộng sản mà vẫn hòa bình thịnh vượng, tự do dân chủ nhưng với Cộng sản chỉ đấu tranh ôn hòa thay vì bạo lực trong tinh thần “anh em một nhà”.

Điều này phản ánh qua một số đề tài thể hiện trên mặt báo như giới thiệu các tác giả bị miền Bắc bạc đãi như Hoàng Cầm, Hoàng Công Khanh, Vũ Anh Khanh, Quang Dũng, Hà Minh Tuynh, Nhất Linh; giới thiệu tác phẩm “Bác sĩ Jivago” của B. Pasternak đoạt giải Nobel nhưng bị chính quyền Liên Xô thời đó phủ nhận giá trị… Đồng thời vẫn kêu gọi, cổ vũ cho ngưng chiến hòa đàm…

Được sự hỗ trợ tích cực của lứa sinh viên cùng chí hướng cũng là những cây bút trẻ có tiềm lực và nhiệt huyết gồm Thế Uyên, Nguyễn Hữu Dung, Bùi Ngọc Dung, Trần Triệu Luật, Trần Quang Long, Nguyễn Trọng Văn, Luân Hoán… Dần dần cả những tác giả tiến bộ khác ngoài giới sinh viên cũng gia nhập đội ngũ như Hoàng Ngọc Biên, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Xuân Hoàng nên báo đạt chất lượng nâng tầm đáng kể - sâu sắc và tiến bộ - nhất thời này.

Bản thân nguyên là nhà thơ và viết kịch (có vở “Mắc lưới” được tặng giải thưởng quốc gia chế độ cũ năm 1966) cũng góp bài viết về các đề tài thời cuộc.

Tuy nhiên qua giai đoạn sinh viên lên ngôi trên chính trường miền Nam đến thời các “tướng trẻ” Thiệu – Kỳ nắm quyền và Mỹ can thiệp sâu thì tình hình miền Nam nhanh chóng đổi khác với chiều hướng chiến tranh dữ dội hơn. Từ đó quan điểm “đối thoại” hòa bình với miền Bắc phá sản nên nhóm Dương Kiền bắt buộc phải rút khỏi báo để tránh cho báo khỏi bị đóng cửa! (Để tồn tại, sau đó báo biến thể thành một loại tạp chí khảo cứu văn học tạp lục trình độ giáo khoa vô thưởng vô phạt do chủ nhiệm Phan Kim Thịnh từ nay quán xuyến hết mọi mặt).

Còn bản thân cũng hầu như rút lui khỏi các hoạt động VHNT, ra làm luật sư… Bạn bè cùng chí hướng một thời nay cũng phân tán mỗi người một ngã đường đời có khi còn theo hướng đối nghịch nhau như đi lính VNCH (Thế Uyên, Luân Hoán…) hoặc vào chiến khu theo Cộng sản luôn (Trần Quang Long, Trần Triệu Luật…)!

Sau 1954 qua định cư Na Uy. Cuối đời làm thơ Thiền như một cách đã “đạt đạo” như bài sau viết năm 2006 nhân chuyến quay về cố hương tìm thăm lại cảnh cũ người xưa:
VÒNG QUAY
“ Có một vòng quay cho đời ta,
Tinh mơ lấp lánh hạt sương sa,
Giữa trưa nắng đổ hai vai nặng,
Chiều vẳng chuông chùa mở lối ra.
Thế đấy, niềm vui chan nước mắt,
Ừ em, nỗi khổ cũng đơm hoa,
Em nhé cầm tay ta tĩnh lặng,
Yêu nhau Nam Mô A Di Đà.
(SaiGon, 19.02.2006)

1063 - Lê Nguyên Vỹ
SINH BẮC TỬ NAM HÀI CỐT QUY CỐ HƯƠNG
Chuẩn tướng VNCH sinh 1933 tại Sơn Tây – Mất 1975 ở Bình Dương (43 tuổi).
Năm 1954 cùng các em gái di cư vào Nam, mẹ còn ở lại miền Bắc.

Gia nhập quân lực VNCH. Nổi lên trong hàng ngũ tướng trẻ tài năng từ năm 1972 làm tư lệnh phó Sư đoàn 5 tử thủ An Lộc (thuộc Bình Phước hiện nay).

Cuối năm 1973 giữ chức tư lệnh cuối cùng sư đoàn này trong lúc người em gái đã đi theo Cộng sản! Được tiếng tướng trong sạch chống tham nhũng.

Đến trưa ngày 30.4.75 sau khi nhận lệnh Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng Việt Cộng đã ra lệnh giải tán sư đoàn, sau đó riêng mình đến đứng dưới cột cờ bộ tư lệnh (đặt tại Lai Khê, Bình Dương) rút súng ngắn tự sát tại chỗ: “Vì tôi là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành lệnh này được (đầu hàng). Tôi nghĩ thân làm tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ơn huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi.”

Là một trong 5 vị tướng VNCH tự sát sau khi thi hành lệnh đầu hàng (còn Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng – có điều trùng hợp Lê Văn Hưng là tư lệnh Sư đoàn 5 khi mình là tư lệnh phó).

Vợ (gốc Hải Phòng di cư) ở nhà sau đó mới biết tin đành gạt lệ ôm 4 con nhỏ (từ 6-10 tuổi) vượt biên qua Mỹ làm thợ cắt tóc nuôi con. Nhưng vẫn giữ liên lạc với mẹ chồng ngoài Bắc, gửi tiền giúp đỡ bà.

Năm 1987 bà mẹ ngoài Bắc vào TPHCM gặp các con gái tìm mộ con trai chôn ở Gò Vấp đưa đi hỏa thiêu rồi đem về quê Sơn Tây thờ trong đình làng.

“Sinh Bắc tử Nam” là khẩu hiệu của cán binh, bộ đội sinh miền Bắc vào miền Nam chiến đấu, một số hy sinh sau 1975 được thân nhân vào đưa hài cốt về quê nhà miền Bắc. Trên đây là trường hợp quy cố huơng tương tự hiếm có thuộc về phía bên kia chiến tuyến cuối cùng cũng quay đầu về lại nơi chôn nhau cắt rốn mà trước kia mình từng dứt áo ra đi.

1064 - Nguyễn Đình Đầu
ĐIỂN HÌNH NGƯỜI TRÍ THỨC CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC
Nhà nghiên cứu sử địa sinh 1920 tại Hà Nội. Sống ở TPHCM (2012).
Thời Pháp tốt nghiệp trường Bách nghệ Hà Nội, tham gia hoạt động trong những phong trào thanh niên tiến bộ thời đó như Hội Truyền bá Quốc ngữ, Hướng đạo và do mình có đạo nên cả tổ chức Thanh Lao Công (thanh niên lao động Công giáo) do giới Công giáo thành lập tạo điều kiện cho giới trẻ có đạo hoạt động xã hội. Ngay từ thời này đã bộc lộ năng khiếu và ý thích vẽ bản đồ đất nước.

Khi Cách mạng Tháng 8 thành công, được một huynh trưởng hướng đạo dẫn dắt đi theo con đường cách mạng, đưa vào chính phủ lâm thời làm phụ tá bộ trưởng bộ kinh tế quốc dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ đi mua gạo bị quân Lư Hán bắt suýt giết chết. Sau đó tiếp tục làm phụ tá ngoại giao trong cuộc đàm phán với Pháp, có mặt trong phái đoàn VN qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau thất bại.

Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, không theo vào chiến khu (có lẽ do nghi ngại Cộng sản đã có dấu hiệu phân biệt đối xử với Công giáo) mà vẫn ở lại Hà Nội. Rồi được giúp đỡ qua Pháp theo học ĐH Công giáo ở Paris, tốt nghiệp cử nhân ngành khoa học xã hội năm 1953. Trong thời gian này vẫn tham gia các hoạt động Việt kiều ở Pháp ủng hộ kháng chiến chống Pháp.

Năm 1955 trở về Sài Gòn đi dạy học chuyên môn sử địa, soạn sách giáo khoa môn này. Nhân đó tìm lại thú vui vẽ bản đồ và say mê sưu tầm bản đồ cổ VN lên tới hơn 3.000 bản đồ. Song song đó góp phần khôi phục, chấn hưng phong trào Thanh Lao Công tuy thuộc Công giáo song lại có xu hướng tiến bộ ủng hộ Mặt trận Giải phóng miền Nam chống Mỹ.

Từ đó sau Hiệp định Paris ký kết 1972 đã ra mặt tham gia “Lực lượng thứ ba”, lực lượng chính trị tự cho “đứng giữa” không theo VNCH thân Mỹ cũng không theo Cộng sản với chủ trương đấu tranh tái lập hòa bình cho đất nước. Vì thế đã được Tổng thống Dương Văn Minh lên nắm quyền vài ngày trước 30.4.75 cử vào đoàn đại diện đến gặp phái đoàn Cộng sản (miền Nam) ở Trại Davis để thương thảo ngưng bắn không thành.

Sau ngày Giải phóng, “Lực lượng thứ ba” xem như dẹp tiệm nhường chỗ cho Cộng sản – chỉ còn duy nhất một lực lượng là Cộng sản! – nên đành lui về làm thường dân.

May nhờ hai nhà khoa học cộng sản uy tín Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng biết được sở học và quá trình hoạt động yêu nước của một người trí thức Công giáo tiến bộ tiêu biểu nên giúp đỡ đưa trở lại con đường chuyên môn nghiên cứu sử địa, đặc biệt nghiêng về khảo cứu địa dư, địa bạ, bản đồ VN từ xưa đến nay. Từ đó liên tiếp có nhiều công trình, tác phẩm nghiên cứu khoa học đóng góp trong lĩnh vực này.

Năm 2005 được tặng Giải thưởng Trần Văn Giàu, năm 2008 là Giải thưởng Phan Châu Trinh cho toàn bộ sự nghiệp học giả đến khá muộn màng vào cuối đời.

1065 - Phạm Hồng Thắm
LỜI HỨA CỦA NGƯỜI LÍNH
Y sĩ sinh 1958 tại Hải Dương. Sống ở Gia Lai (2011).
Vào bộ đội quân y năm 1973 chiến đấu ở miền Nam.

Năm 1986 ra quân chuyển qua làm nhân viên nhà nghỉ ở Thái Nguyên.

Sau khi lấy vợ sinh con (4 con) thấy khó sống nổi với đồng lương công nhân nên năm 1993 quyết định đem vợ con lên vùng cao Chư Pah Trai ở Gia Lai từng là chiến trường xưa trồng cà phê và nuôi bò mong thoát cảnh nghèo.

Trên quê hương mới nhờ có tay nghề y sĩ cũ nên còn giúp đỡ săn sóc, chữa trị cho trẻ em người dân tộc (đa số dân tộc J’rai) bị khuyết tật hoặc mắc di chứng CĐDC. Không chỉ thế, còn tìm mọi cách cứu sống trẻ sơ sinh người dân tộc vì hủ tục suýt bị buôn làng chôn sống mang về nuôi dưỡng. Từ đó trở thành một người cha nuôi của cả trăm trẻ khuyết tật, mồ côi, nạn nhân CĐDC.

Khi Trung tâm Phục hồi chức năng Chư Pah được thành lập giao cho làm giám đốc, đã đưa số em khuyết tật vào đây tập vật lý trị liệu, ứng dụng thuật điện châm cho các em xem như tất cả đều là con nuôi, lớn lên các em được cho đi học nghề…

Tất cả vì một lời hứa với đồng đội trước đây nếu còn sống sẽ “nuôi hộ những đứa con của người lính”. Hoàn cảnh đưa đẩy bây giờ làm việc này hy vọng “Biết đâu nới chín suối bạn bè cũng sẽ mỉm cười vui vẻ với mình. Biết bao đứa con của người lính có thể cũng đang trong cảnh này, mình giúp trẻ con ở đây thì sẽ có nhiều người giúp chúng…”

1066 - Phạm Khôi
VỀ VỚI BIỂN QUÊ MÌNH
Kỹ sư địa chất Việt kiều Canada sinh 1972 tại Sài Gòn. Sống ở Vũng Tàu (2012).
Mới 3 tuổi đã cùng gia đình di tản qua Canada tháng 4.1975.

Lớn lên theo nghiệp cha vốn là một thuyền trưởng ở miền Nam, học và tốt nghiệp kỹ sư địa chất từ năm 1997 chuyên đi tàu khảo sát địa chấn biển ở Canada lên tới tận Bắc cực lẫn Nam cực.

Khi mình đã đạt trình độ và kinh nghiệm cao tay nghề, chính người cha đã khuyên nên về giúp VN làm công tác khảo sát địa chấn biển phục vụ tìm kiếm và khai thác dầu mỏ, một lĩnh vực ở VN còn hiếm chuyên gia trong nước.

Vì thế năm 2009 chấp nhận lời mời trở về làm đội trưởng đội khảo sát địa chấn trên tàu thăm dò dầu khí của VN dù lương thấp hơn làm với nước ngoài mà lại ở xa cha mẹ: “Chuyên môn khảo sát địa chất biển ở VN không cao, chính vì thế lại càng thôi thúc mình về. Mình tin rằng sẽ làm được gì đó dù rất nhỏ bé cho quê hương đã sinh ra mình.”

Đây chính là người đội trưởng có mặt trên tàu Bình Minh 02 đương đầu với tàu hải giám Trung Quốc gây hấn năm 2011, bảo vệ vùng biển quê hương, bảo vệ tàu và đồng đội an toàn.

1067 - Phạm Mạnh Cương
CẠN NGUỒN CẢM HỨNG
Nhạc sĩ Việt kiều Canada sinh 1933 tại Huế. Sống ở Canada (2012).

Trước 75 vừa mở trường tư ở Sài Gòn vừa viết nhạc tình ca lãng mạn nhẹ nhàng nổi tiếng với những bài “Mắt lệ cho người tình”, “Thương hoài ngàn năm”, “Thu ca”… Làm các chương trình ca nhạc truyền hình, thu băng đĩa thành công.

Cùng vợ làm MC cho các chương trình đó hợp thành một đôi uyên ương văn nghệ tài sắc vẹn toàn.

Sau 30.4.75 còn ở lại. Nhưng đến năm 1980 thấy khó lòng hòa nhập được với xã hội mới nên cùng 2 con vượt biên từ Cà Mau qua Thái Lan rồi được nhập cư Canada. Lập ban nhạc chơi cho các vũ trường ở Montreal.

Năm 1983 bảo lãnh vợ và 2 con gái qua theo. Tuy nhiên vài năm sau thì hai người… chia tay!

Năm 1998 in tuyển tập nhạc “Huế còn chút gì để nhớ” xem như món quà âm nhạc cuối cùng gửi quê nhà.

Bởi từ khi bôn ba lưu lạc xứ người chỉ sáng tác được 5 bài hát vì cuộc sống, con người nay đã đổi khác, tình cảm từ đó cũng khác rồi không còn đem lại cảm hứng dạt dào tươi mới như xưa nữa: “Người nghệ sĩ muốn sáng tác với sự rung động thật sự phải có nguồn cảm hứng thật. Mà muốn có nguồn cảm hứng thật thì tâm hồn phải thảnh thơi vượt qua cuộc sống hàng ngày…”

1068 - Phạm Mạnh Đạt
MỘT ĐỜI HẠ UY CẦM
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1934 tại Hải Dương. Sống ở Mỹ (2012).

Là một trong những nhạc sĩ đầu tiên chơi đàn hạ uy cầm (đàn hawai) từ thời mới du nhập vào Hà Nội những năm 1940 cùng các đồng nghiệp Nguyễn Thiện Tơ, Tạ Tấn, Đoàn Chuẩn…

Năm 1954 cùng vợ di cư vào Nam. Bị động viên đi lính trường sĩ quan Thủ Đức nhưng sau bị thương nên cho giải ngũ sớm. Từ đó tiếp tục gắn bó với sự nghiệp đàn hạ uy cầm tuy ngày càng bị các loại nhạc cụ phổ biến hơn (guitar, piano…) lấn lướt. Bắt đầu viết ca khúc năm 1957.

Đến 30.4.75 cùng vợ và 5 con lên tàu di tản qua Mỹ.

Trên xứ người tạm gác đàn lại lo đi làm lao động nhà hàng (cả dọn dẹp vệ sinh) nuôi thân rồi quay qua mở cửa hàng tạp hóa.

Đầu nhưng năm 1990 khi cuộc sống đã ổn định, gia đình sung túc mới tìm lại niềm đam mê hawai thủa nào. Mở trung tâm dạy nhạc đồng thời bắt đầu thu đĩa nhiều ca khúc do mình tự đánh đàn hawai độc tấu hoặc có phụ họa gây được tiếng vang đáng kể.

Đã ra mắt 10 đĩa nhạc hawai như vậy, trở thành hầu như là nhạc sĩ VN đàn hawai nhà nghề duy nhất ở hải ngoại và có thể cả ở trong nước nữa.

Ngoài ra còn là người đầu tiên mở chương trình Radio tiếng Việt ở TP San Jose, California. Tuy nhiên không tiếp tục công việc kinh doanh đài nữa vì muốn để dành thời gian gắn bó với tiếng đàn hawai.

Năm 2002 lần đầu tiên quay về nước, về tận làng quê nơi sinh nhau cắt rốn ở Hải Dương tặng tiền xây 2 trường mầm non, vào TPHCM ủng hộ quỹ phát triển âm nhạc cho Nhạc viện TP.

1069 - Phạm Minh Thư
MỘT MÌNH THÁO GỠ 18.000 BOM MÌN
Thượng tá bộ đội sinh 1956 tại Quảng Ninh. Sống ở Hà Nội (2012).

Đi bộ đội năm 1974.

Sau chiến tranh, năm 1979 về tiểu đoàn bảo dưỡng kỹ thuật bay đóng tại sân bay Pleiku, dần dần lên chức tiểu đoàn trưởng hàm trung tá.

Do hoạt động trong sân bay nên tận mắt chứng kiến vô số tai nạn bom mình còn nằm sâu dưới lòng đất trên một diện tích rộng bao la bát ngát phát nổ làm nhiều người cả thường dân lẫn bộ đội chết và bị thương thảm khốc mà lúc đó bộ đội công binh chưa có điều kiện và phương tiện để rà soát thu gom. Bản thân thấy vậy không khỏi đau lòng mới suy nghĩ tìm cách làm sao xóa bỏ tai họa này.

Được một đồng đội bên công binh hướng dẫn về cách tháo gỡ bom mìn, thế là từ năm 1992 tự mình lặng lẽ bắt tay vào công việc nguy hiểm chết người này (sau đó có được một đồng đội phụ giúp một thời gian rồi thôi). Do không phải là nhiệm vụ được giao phó nên phải làm toàn ngoài giờ hành chính, vào rạng sáng hoặc chiều về hoặc ngày nghỉ ngày lễ.

Cứ thế đơn thương độc mã một mình cầm dụng cụ đi “chọc” lỗ tìm dấu hiệu bom mìn lấp dưới đất, dưới cỏ, trong bụi rậm… Tìm được dấu vết bom mìn rồi mới tiến hành thao tác tháo gỡ chúng, vô hiệu hóa đem giao cho bộ phận công binh xử lý.

Làm âm thầm lặng lẽ, thậm chí còn giữ “bí mật” với gia đình nữa sợ bị can ngăn! Năm 2003 vợ mới biết khóc lóc van xin đừng làm nữa song không chịu: “Làm người ai cũng muốn có một cuộc sống bình yên nhưng không lẽ mình cứ ngồi yên để nhìn người khác chết chóc bi thương sao. Anh sẽ làm cho bằng hết…”

Bản thân cũng chấp nhận cái giá có thể hy sinh bất cứ lúc nào nên trước mỗi lần đi ra bãi bom mìn đều gấp sổ sách giấy tờ trên bàn làm việc rất cẩn thận, thu dọn phòng làm việc ngăn nắp gọn gàng, viết các nội dung kế hoạch làm việc để lại trên bàn để nếu không may mà không trở về được thì mọi người còn biết công việc mà làm!

Dầm mưa dãi nắng chiến đấu với mối đe dọa tử thần từ năm này qua năm khác khiến cân nặng từ 70kg sụt xuống còn 50kg, người khô đét đen đúa đúng là giống dân buôn phế liệu! May mà sao nhờ trời phù hộ không phụ lòng người có tâm lớn nên đã không ít lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.

Kết quả sau 13 năm (đến 2005) tính đủ đã tháo gỡ được khoảng gần 18.000 quả bom mìn giết người. Từ vùng đất hoang hóa đã được làm sạch đó mới vận động đồng đội trồng hơn 100 hecta bạch đàn trước khi được điều qua làm Phó giám đốc Bảo tàng Quân chủng Phòng không – Không quân.

1070 - Phạm Ngọc Sang
“CÓ TỘI VỚI ĐỒNG BÀO”
Chuẩn tướng không quân VNCH sinh 1931 tại Gia Định – Mất 2002 ở Mỹ (72 tuổi).
Trong trận quân VNCH lập chiến tuyến tử thủ Phan Rang tháng 4.1975, là tư lệnh không quân vùng Tây Nguyên có quyền chỉ huy trên máy bay (khi cần dễ bay trốn thoát) nhưng vẫn tình nguyện xuống căn cứ dưới mặt đất để chỉ huy không quân hợp đồng tác chiến với bộ binh. Vì vậy cuối cùng bị bắt làm tù binh.

Đi cải tạo 17 năm ngoài miền Bắc, đến 1992 do bị bệnh nặng mới được cho về. Một năm sau cùng vợ con đi Mỹ nhờ con trai vượt biên trước đó bảo lãnh.

Nhưng không sống được lâu do di chứng bệnh tật thời đi cải tạo kéo dài.

Trước khi mất còn kịp viết hồi ký về trận Phan Rang với tâm sự u uẩn: “ Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào vì làm tướng mà không giữ được thành.”

Và trăng trối hai điều: Tất cả tiền phúng điếu gửi về giúp thương phế binh VNCH còn ở lại VN, với những đồng đội lưu vong thì nhắn nhủ “Mọi người hãy thương yêu nhau”.

(Còn tiếp)

NGHẸN NGÀO - PHAN LỆ DUNG




Anh gặp em
Ngày ấy ngoài trời mưa lất phất
Cây bưởi đơm hoa trắng

Anh nói anh yêu em
Khi ấy trời nắng nhạt, ngày đang vào thu

Như cây cỏ rong chơi không có mặt trời
Mùa đông, mùa hạ
Anh và em
Lan man gió, mưa
Có khi ngỡ như mình không còn hơi ấm
Trời đất băng giá em.

Một chút nắng vàng
Một chút gió heo may
Cũng vội vàng vụt bay ra ngoài xa thẳm
Chỉ còn mùi hương đọng trên cửa sổ
Và nỗi xót xa lăn mãi trong lòng

Bây giờ
Em lang thang
Chiều mùa đông lạnh
hái ngọn cỏ nghẹn ngào
Nỗi buồn loang ra cả gió.

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

BẤT CHỢT - HOÀNG THỊ THIỀU ANH




Bất chợt một ngày
Bất chợt nắng…
Bất chợt một ngày
Bất chợt mưa…

Bất chợt xa Anh
Bất chợt nhớ
Bất chợt mộng về
Bất chợt
Yêu !

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

BOLÊRO - LÊ NGỌC THUẬN



Trong đôi mắt em quá nhiều xác chết
Anh lạc vào không biết đứng góc mô
Hay là em đã then cài cửa đóng
Hay tại anh thân thế không còn

Cũng hy vọng một mai em chải tóc
Có vài ba sợi rụng nhớ anh
Cũng mong muốn một ngày em hờn giận
Để biết rằng em có chút yêu thương

Cư như thế ngày lại ngày hiu hắt
Rượu chập chờn ngớ ngẩn mong lung
Anh chợt mơ mình cái khuy nút áo
Để em cài trên ngực trắng thanh xuân

Anh lẩm cẩm giữa gió lào khô rát
Như mụ cô già lảm nhảm tình duyên
Lại lẩn quẩn nhớ đôi chân huyễn hoặc
Đôi chân tỳ bà riêng của đời anh

Vốn mộc mạc anh buồn như rau sống
Như khế chua thiếu vả giữa bờ môi
Như em vẫn xa xôi ngàn dặm đó
Như anh chiều nay rượu rót lẻ người

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

DI SẢN THI CA TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ

Đại tự và thơ ở chánh điện Thái Hòa
Tại quần thể di tích cố đô Huế hiện vẫn còn một bộ di sản khổng lồ được in trên nhiều các mái, trần, tường, bia, cổng... đó là những bài thơ mang ý nghĩa triết lý sâu sắc của các vị vua triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam.

Từ đầu thập niên 80, Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cùng các học trò của mình từ thành phố Hồ Chí Minh ra Huế ghi chép và dịch những bài thơ, câu thơ chữ Hán khắc trên nóc mái, trên các ô hộc trang trí của lầu Ngọ Môn, điện Thái Hòa, và các nghi môn. Sau 13 năm miệt mài với công việc này, năm 1994 Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cho ra mắt cuốn sách “Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà (NXB Trẻ-1994)”. Đó là công trình đầu tiên dịch và chú giải khoảng 300 bài thơ, các bức đại tự, và các dòng chữ trên hai nghi môn nằm trên trục Bắc - Nam của Hoàng thành Huế, từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà; một việc làm rất có ý nghĩa trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế.

Xét về vị trí, ý nghĩa, chức năng sử dụng, điện Thái Hoà là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong Hoàng thành Huế. Đây là nơi đặt ngai vua; nơi triều đình tổ chức đại triều và các đại lễ quan trọng như: lễ Vạn thọ, lễ Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết, lễ Hưng quốc khánh niệm… Ngọ Môn là cửa chính giữa mặt trước Hoàng thành, tên cũ là Nam Khuyết Đài, dành cho vua, và đoàn Ngự đạo, khi ra – vào Hoàng thành. Ngọ Môn còn có một số chức năng khác. Bên trên là lầu Ngũ Phụng, được xem như một lễ đài tổ chức một số sự kiện quan trọng như: lễ duyệt binh, lễ Truyền lô (xướng danh Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban sóc. v.v…

Giáo sư Huỳnh Minh Đức đánh giá thơ trên Ngọ Môn và trong điện Thái Hoà là tinh hoa văn hoá Việt Nam của thế kỷ 19 mà tác giả là các vị vua, và các Hoàng thân, Nho thần triều Nguyễn. Để dịch nghĩa, dịch thơ và chú giải nội dung tư tưởng ông đã huy động vốn kiến thức về văn hóa phương Đông nói chung, văn hoá Trung Hoa nói riêng, bao gồm kinh dịch, kinh thư, điển tích, học thuyết, triết lý của các Nho gia, và truyền thuyết về lịch sử, tư tưởng.
Mô tip trang trí nhất thi nhất hoạ (một bài thơ thì đi kèm với 1 bức tranh) trong điện Thái Hoà

Từ kinh dịch, kinh điển, và truyền thuyết lịch sử, Giáo sư Huỳnh Minh Đức cho rằng tổng thể kiến trúc từ cửa Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa thể hiện uy quyền của nhà vua; là một loạt công trình kiến trúc lộng lẫy như muốn vươn đến trời xanh, rồi lại xuống thấp để tìm lại sự hài hòa giữa đất, trời, và con người. Sự hài hòa đó được kinh dịch gọi là Thái Hòa. Đó là sự sáng tạo của các vị vua đầu triều Nguyễn trong quy hoạch và xây dựng quần thể kiến trúc Hoàng thành Huế.

Ở nội thất, ngoại thất tiền điện và hậu điện Thái Hoà, trên bờ nóc, cổ diêm, liên ba, đều được trang trí theo mô tip nhất thi nhất họa (một bài thơ, một họa tiết) với hai chất liệu chủ yếu là chữ viết trên nền Pháp lam (ở ngoại thất) và chạm khắc trên gỗ - sơn son thếp vàng (ở nội thất). Chữ Hán trên điện Thái Hoà được khắc ghi trên 297 ô hộc. Riêng thơ hiện còn khoảng 200 bài, nghiên cứu kỹ sẽ thấy đó là một chỉnh thể văn bản nhằm thể hiện nội dung tư tưởng và khát vọng của một triều đại.

Xin dẫn một bài nhằm làm sáng tỏ: Văn hiến thiên niên quốc/Xa thư vạn lý đồ/Hồng Bàng khai tịch hậu/Nam phục nhất Đường Ngu. Đây là bài Ngự chế của vua Minh Mạng với nghĩa: Đất nước đã hàng ngàn năm văn hiến. Xa thư (xe, sách) lấy từ “xa đồng quỹ” (xe cùng một cỗ bánh) và “thư đồng văn” (sách viết một thứ chữ) với hàm ý đã thống nhất được đất nước rộng lớn. Kể từ thuở Hồng Bàng dựng nước đến nay nước Đại Nam (ở triều ta) đã trở thành một cõi thanh bình, thịnh trị như thời Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.

Thơ trên điện Thái Hoà điển tích Xa thư được sử dụng ở nhiều bài để nhấn mạnh niềm tự hào về công cuộc thống nhất đất nước, cũng như sự ưu việt của chế độ chính trị. Xin dẫn thêm một bài: Xa thư quy nhất thống/Thịnh trị quản Hồng Bàng/Việt tộ chính đương dương/Cư trung ngưỡng thánh hoàng (Giang sơn nay nhất thống/Thịnh trị sánh Hồng Bàng/Nước Việt dương toàn thịnh/Thần dân ngưỡng thánh hoàng).

Điển tích Nghiêu Thuấn được sử dụng với tần suất nhiều hơn như các trường hợp: Hóa nhật quang Nghiêu điện/Huân phong độ Thuấn cầm (Mặt trời làm sáng ngôi điện của vua Nghiêu/Khúc Nam Phong đã đưa tiếng đàn cầm của vua Thuấn); Đại đạo đăng Nghiêu Thuấn/Tân phong quảng Lạc Hùng (Đạo lớn xin theo mô hình thời vua Nghiêu vua Thuấn/Chế độ mới mở rộng quy mô thời các vua Hùng); Cửu cù ca Thuấn đán/Tứ hải vọng Nghiêu vân (Chín nẻo ca ngợi ngày của vua Thuấn/Bốn biển ngắm cảnh mây của vua Nghiêu.v.v…

Khi phân tích ý nghĩa của công trình điện Thái Hoà, tác giả Phan Thuận An dẫn bài: Đại đức phù càn tạo/Thuần phong vãn thái hoà/Nghiêu cù thuận đế tắc/Xứ xứ dật âu ca (Đức lớn tày tạo hoá/Thuần phong giữ thái hoà/Thời Nghiêu theo phép nước/Khắp chốn dậy lời ca). Đây là điển tích dễ hiểu. Nghiêu - Thuấn là hai vị minh quân trong truyền thuyết lịch sử Trung Quốc. Vua Minh Mạng lấy điển tích này để tỏ rõ khát vọng đất nước có vua sáng tôi hiền, chính sự tốt đẹp. Thời huy hoàng của triều Lê, Nguyễn Trãi cũng đã từng bày tỏ khát vọng Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/Tôi Đường Ngu ở đất Đường Ngu.
Các mái ngói được trang trí bởi điển tích thơ nhìn rất có hồn

Từ cửa Ngọ Môn đi vào điện Thái Hoà, ở hai đầu cầu Trung Đạo có hai Nghi môn (còn có tên gọi khác là Phương môn). Hai mặt trước sau của mỗi Nghi môn đều có bốn chữ viết trên nền Pháp lam. Hai mặt hướng nam (từ ngoài Ngọ Môn nhìn vào) là hai câu Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh. Hai mặt hướng bắc (trong điện Thái Hoà nhìn ra) là hai câu Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục. Nội dung bốn câu trên hai Nghi môn này toát lên tư tưởng chỉ đạo, phương hướng, đường lối cai trị của triều đình nhà Nguyễn.
Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh mang ý nghĩa mà Mạnh Tử gọi là ngoại vương. Trong Kinh Thư, Kinh Thi đều có viết về chính trực đẳng bình, tuân vương chi nghĩa, tuân vương chi đạo, vương đạo chính trực… Vua Minh Mạng cho đưa bốn chữ này lên Nghi môn trước điện Thái Hoà là đưa ra tuyên ngôn về con đường chính trị của triều đại, và của bản thân nhà vua. Đó là thực hành chính sự ngay thẳng, rõ ràng. Bậc quân vương tuân theo điều nghĩa, không thiên lệch.
Chữ chính trực đẳng bình từ nghi môn nhìn thẳng theo một trục vào điện Thái Hòa - nói lên tư tưởng và tuyên ngôn của nhà vua triều Nguyễn

Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục dựa theo sách Trung dung, Kinh dịch, Mạnh Tử… thuộc nội thánh, có quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Trung Quốc từ triết lý nhân của Khổng Tử đến triết lý nhân nghĩa của Mạnh Tử. Nhân là đức tính, là tố chất cần phải có để làm người. Thuyết giảng của Khổng Tử về Đạo Nhân tập trung vào vấn đề tu dưỡng nhân cách để làm người. Mạnh Tử thì ứng dụng Đạo Nhân của Khổng Tử để thực hành trong chính trị và quan hệ xã hội; phát triển tư tưởng nhân của Khổng Tử thành tư tưởng nhân nghĩa.
Và chính Mạnh Tử đã nhấn mạnh: Quân nhân, mạc bất nhân; Quân nghĩa, mạc bất nghĩa - Nếu nhà vua ở theo nhân thì không ai không ở theo nhân; Nếu nhà vua đi theo nghĩa thì không ai không đi theo nghĩa. Nhân nghĩa là con đường thực hành nhân tính. Khẩu hiệu Cư nhân do nghĩa trên Nghi môn như là tấm gương soi hàng ngày của vua quan nhà Nguyễn. Trung hoà vị dục cũng dựa theo sách Trung dung. Hoà dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã trí; Trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên - Thực hiện được đầy đủ lẽ trung hoà thì trời đất được an vị, vạn vật được sinh sôi nẩy nở.

Theo TS.Phan Thanh Hải, PGĐ phụ trách Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, điểm độc đáo riêng biệt đối với thế giới là ít có nơi nào có thơ được khắc họa trên di tích như Huế. Toàn bộ các bài thơ được cha ông xưa tuyển chọn kỹ từ các áng văn thơ tiêu biểu nhất trong tinh hoa thi ca của văn sĩ Việt Nam. Điểm khác biệt nữa là ngay tại các nơi còn lại nhiều di tích như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc và các triều đại trước nhà Nguyễn cũng không có kiểu khắc thơ trên cung điện, lăng tẩm của vua như ở Huế.

Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị mỹ thuật, giá trị tư tưởng, giá trị văn học của bộ tuyển thơ đồ sộ - ước tính có khoảng 4.000 bài thơ lưu dấu trên các công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn - Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đang tiến hành định dạng các văn tự Hán Nôm trên các ô hộc trang trí. Công việc số hoá đã hoàn thành ở Ngọ Môn, điện Thái Hoà, lăng Đồng Khánh. Ở Điện Long An có khoảng 400 ô hộc trang trí, đã số hoá được khoảng 50%.
Nghi môn thứ hai, ở hướng bắc đề bốn chữ “Trung hoà vị dục”

Công việc, ghi chép, số hoá những bài thơ và các hoạ tiết trang trí đòi hỏi khá nhiều thời gian do có nhiều chữ đã mờ theo thời gian, có bài thơ bị mất chữ, có chữ bị mất nét. Việc phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, sắp xếp các câu thơ được khắc riêng lẻ trên từng ô hộc để ghép lại thành những bài hoàn chỉnh cũng không hề đơn giản. Nếu suôn sẻ phải mất bốn năm công việc này mới có thể hoàn tất.

Việc làm này rất bổ ích và thiết thực đối với công cuộc trùng tu, tôn tạo các công trình kiến trúc cung đình cũng như phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của tiền nhân để lại. Sau khi dự án hoàn thành di sản thơ ca trong cung điện triều Nguyễn sẽ được lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận “Di sản ký ức thế giới”.

Các câu thơ viết trên pháp lam ở trên nghi môn chói sáng dưới ánh mặt trời
Thơ trên các nghi môn tại các hướng chính dẫn vào trung tâm của Kinh thành Huế - Thái Hòa điện nhằm để cho các sứ thần ngoại bang nhìn thấy đầu tiên khi vào thăm vua Nguyễn.


Thanh Tùng - Đại Dương
Nguồn: http://www.dantri.com.vn

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 8 ) - VÕ CHÂN CỬU

Rau tập tàng

Lần nào về quê, tôi cũng nhờ nấu một bữa canh rau tập tàng. Ở quán Bông Giấy vỉa hè, tưởng tôi nói nghĩa bóng, có nhà thơ nữ “tân hình thức” liền phản bác: thơ hiện đại là hiện đại. Chứ làm sao có chuyện “tập tàng” trong đó được.
Xưa hay nay cũng vậy, giới cầm quyền theo phong cách “toàn trị” vẫn muốn mọi sự phải theo khuôn mẫu; một là một, hai là hai ! Sống trong nền giáo dục đó, giới tập sự cầm bút cũng ảnh hưởng nếp suy nghĩ đó một cách vô thức. Một người bạn được phong là hàng ngũ chủ lực của nhóm “hâu hiện đại”, và là “hội viên Hội nhà văn thành phố” cũng nhiều lần mong muốn tôi phải “làm mới thơ”. Một người chuyên làm thơ từ trước hẹn sẽ lên Bảo Lộc thuyết giảng cho tôi nghe về lý thuyết phong cách sáng tác “hậu hiện đại” của phương Tây (thực ra thông tin về cao trào này đã về tới Việt Nam hơn 30 năm, tới nay đã cũ mèm).



Phá thể, Tự do
Nam Việt Nam những năm 1967-1975 đã bùng phát đội ngũ các nhà thơ trẻ. Họ không phủ nhận tính chất sáng tạo của thể thơ tự do mà nhóm Tạp chí Sáng Tạo (dẫn đầu là Thanh Tâm Tuyền-TTT) cổ vũ, cũng không tìm cách quay về với loại thơ phá thể của thời kỳ Thơ mới (1932-1945). Lớp thi sĩ này làm đủ các thể thơ, thể nghiệm cả những bài thơ dài mỗi câu 6 chữ, 5 hoặc 4 và cả những câu 2 chữ mà Nguyễn Vỹ đã thể nghiệm hồi mấy chục năm trước. Trong tập Tịnh Khẩu (1973), Nguyễn Đức Sơn còn thử nghiệm thêm cả thể thơ “một chữ”, như bài Không Đề:
“ Hột
Thì
Le”
Chữ Việt là ngôn ngữ đơn âm, khó lòng cạnh tranh về âm điệu với các ngôn ngữ đa âm ( tiếng Anh, Pháp, Đức…) thì có nhà thơ tím cách “điệp âm”. Hình thức bây giờ không quan trọng nữa. Miễn sao bài thơ diễn tả được tinh thần hư vô, hoang mang về số phận con người. Hai nền triết học Đông-Tây nay đã gặp nhau trong về sự bế tắt tư tưởng. Giới hoạt động tôn giáo chăn dắt linh hồn con người muốn hòa đồng sự biểu hiện : giáo đường thiết kế gần với kiến trúc đình chùa; các nhà sư tốt nghiệp học vị từ Nhật Bản về xấn tay cổ vũ mô hình “tân tăng” : thầy chùa có thể ngã mặn, có vợ .
Thi ca được xem là đỉnh cao của triết học. Các nhà thơ đã không từ chối sứ mạng hướng tâm hồn con người đến cõi vô vi. Tiếc là thời gian ngắn ngủi (do chiến tranh) và có thể vì “tu luyện” chưa tới nên nhiều cây bút đã lâm cảnh “tẩu hỏa nhập ma”. Người giả khùng giả điên, kẻ sa vào ngợi ca say sưa lãng quên đời qua chén rượu, hay gái giang hồ. Nguyễn Bắc Sơn qua Chiến tranh Việt Nam và tôi trở nên ngạo nghễ qua hình ảnh : Mai ta đụng trận ta còn sống, Về ghé Sông Mao phá phách chơi, Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm, Đốt tiền mua vội một ngày vui. Vô duyên hơn cả có lẽ là Phạm Thiên Thư khi tự hào làm ra tác phẩm “Đoạn Trường Vô Thanh-ĐTVT” có số câu lục bát dài hơn cả “Đoạn Trường Tân Thanh” !
Về tác phẩm này, cuối 1974 một thi sĩ chân quê ở An Nhơn Bình Định là Nguyễn Câu Mục đã viết một bài phê bình khá dài gửi cho Nam Chữ và tôi để in trong mục Phê Bình của Tập san Thi Ca chuẩn bị ra đời. Đoạn cuối bài viết : “Như ta đã được biết, ý của tác giả là “Cho thơ hòa với mênh mang, Cho mênh mang đọng hạt tràng vô thanh”. Nhưng đi sâu vào tác phẩm thì không có những chứng cớ gì để giải được cái cuộc “đoạn trường” ra cả. Tác giả buộc dây thêm cho Kiều thì có!...Xét nội dung ĐTVT là một câu chuyện bịt mắt bắt bóng. Đem việc hóa thân ra để nói đó là một bất lực lớn của tác giả. Cho nên nó chỉ có giá trị ở những chương rời. Do đó, ta đồng ý với tác giả khi gọi đó là thi tập. Còn hình thức thì tưởng tượngtoàn tập với 3694 câu thơ, mà có trên dưới hai ngàn hình ảnh núi, non, chim, suối, hoa, cỏ, động, rừng, khói, sương,mây trăng, lệ, nước, đàn, hương…thì hỏi thơ làm sao không “ ước lệ”, thơ không “đẹp” được ! Tôi đã đọc ĐTVT kỹ càng, tôi đã tìm xét tỷ mỉ nên tôi nói: Phạm Thiên Thư chỉ mới là bước đầu của người tài hoa, nhưng vì quá lạm dụng tài hoa của mình nên thơ ĐTVT đã trở nên nhàm chán mau chóng. Do đó, ai nói ĐTVT là thứ thơ ở trong lòng tất cả mọi đời người, kẻ ấy thật đáng tội”.
“Ước lệ” là một trong những tính chất của thơ ca âm hưởng phong cách Đường Thi. Những trăng, hoa, tuyết, nguyệt khi đọc lên hiển hiện những hình ảnh, tình cảnh chuẩn mực. Trong nghệ thuật, khuôn mẫu sẽ trở thành sáo rỗng. Chính vì vậy nên hình bóng người kỷ nữ, gót phiêu du, đường phiêu lãng giang hồ…của thế hệ thơ mới đầu tiên qua tháng ngày cũng trở thành rỗng tuếch. Hàn Mạc Tử, Bích Khê mở cửa vào thế giới cuồng loạn của màu sắc và âm thanh. Tất cả rồi cũng bế tắc. Thế hệ thơ kế tiếp, nhóm Xuân Thu Nhã tập đi vào ngữ thanh, sử dụng điệp âm. Chữ nghĩa chỉ chuyển tải âm điệu những “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”.

Di cư vào Sài Gòn, năm 1955, Thanh Tâm Tuyền (TTT) mới tròn 21 tuổi dõng dạc tuyên bố: “Trong cái quá trình cấu thành nhạc điệu của” thơ mới” sau khi giải phóng khỏi sự câu thúc của thơ luật, người ta cũng cảm thấy sự nghèo nàn của điệu thơ lẩn quẩn trong bốn câu hay hai câu nối tiếp, nên đã dẫn đến sự sử dụng thể hỗn hợp của ca dao và thơ phá thể…Thơ phá thể chính là biểu hiện của thơ mới ở ngõ cụ, nhạc điệu của thơ phá thể là một thứ nhạc điệu nghèo nàn và giả tạo nhất… Bởi thế thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do”
Làm thế nào để nhận dạng “thơ tự do” ? TTT mạnh dạn giải thích ( về mặt hình thức): …vần điều của thơ tự do là nó không gieo vần theo lối đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác ẩm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ khác”.
Chỉ với hình thức, thì người ta sẽ không nhận ra sự có mặt tất yếu của thơ tự do thời kỳ mới của nghệ thuật. Chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, TTT đã viện dẫn đến lập luận của triết gia Nietzsche để nói về sự cần thiết của dòng thơ ông đeo đuổi: “Khi nghiên cứu về bi kịch của Hy Lạp, Nietzsch đã phân biệt hai khuynh hướng đối chọi nhau trong nghệ thuật. Với quan niệm nghệ thuật Apollon, nghệ thuật phải đạt được những hình thức toànn vẹn, minh bạch vững vàng, một nghệ thuật của mơ mộng, một cáo Đẹp kết lại được ở hình thức có mẫu mực: nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bình yên nhìn ngắm và chấp nhận đời sống. TTT đồng cảm với Nietzsche để cổ vũ cho hướng thứ hai: quan niệm nghệ thuật Dionysos: “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi hảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận. Cái khuynh hướng thứ hai này thường bị hất hủi coi thường, nhất là trong cái xã hội ngưng đọngmấy nghìn năm, ở đây người ta giương mắt thản nhiên nhìn ngắm những đau khổ.”
TTT xác nhận: “Chính từ sự phân biệt của Nietzsche, tôi dùng làm khởi điểm để mở cho người đọc không thấy được sự cách biệt giữa thơ hôm nay với họ mà họ phải vượt qua, không phải là sự cách biệt tầm thường ngoài hình thức mà là chia cách từ căn bản của nghệ thuật, của thơ”.

Chất liệu trần gian

Đi vào lý luận sẽ dễ rơi vào cố chấp. Sự khẳng định về thơ tự do của TTT giúp cho người đọc thấy được nhịp điệu của trí tuệ trong cảm xúc thơ. Nhưng trí tuệ vẫn luôn là…hữu hạn. Trước TTT , một số nhà thơ tài năng đã nhìn ra điều này để đi tìm cái đẹp vĩnh cửu của thơ. Năm 1944, Đinh Hùng cùng với Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu… chủ trương thực hiện giai phẩm Dạ Đài, tự nhận mình là thi sĩ tượng trưng và tuyên bố: "Chúng tôi sẽ nối lại nghiệp dĩ của Baudelaire, tâm sự của Nguyễn Du – sự nổi loạn và ra đi của Rimbaud – nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn. Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên quỹ đạo của trăng sao – đường về trên cõi chết... Thi sĩ tượng trưng chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là thế giới âu sầu đây nữa. Bằng hình tượng, chúng tôi sẽ kể lại những câu chuyện xa xưa người ta kể cho chúng tôi nghe dưới ngọn đèn. Chúng tôi sẽ tìm hiểu linh hồn của những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ tượng trưng hóa cái sức rung động của trẻ em trước chuyện cổ tích hoang đường và sức rung động của gã nông phu trước những bản đồng dao thuần phác..."
Thi sĩ Đinh Hùng (1920-1967) đã thử nghiệm diễn tả cảm xúc bằng sự pha trộn nhiều thể loại trong một bài thơ. Đến năm 1954 ông mới tập hợp những bài thơ làm theo xu hướng đã tuyên ngôn để xuất bản thành tập Mê Hồn Ca. Những câu trong bài “Gửi người dưới mộ” là một nổ lực đổi mới hình thức thơ phá thể:
… “Cười lên em !
Khóc lên em !
Đâu trăng tình sử
Nép áo trần duyên ?

Gót sen tố nữ
Xôn xao đêm huyền
Ta đi lạc xứ thần tiên
Hồn trùng dương hiện bóng huyền U Minh

Ta gửi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình ?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái ?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình ?
……..

Đừng cố chấp với hai chữ “tượng trưng”, sẽ dễ nhận ra rằng hình thức thể hiện của một bài thơ không là quyết định. Cái đẹp đích thực chính là bề sâu tâm hồn mà nó mang tới.
Thơ ca Miền Nam trong giai đoạn cuối (1967-1975) tự do trình diện nhiều món. Cả những cây bút hàng đầu của nhóm Sáng Tạo, như Tô Thùy Yên, và cả Thanh Tâm Tuyền sau 1975, khi đi “học tập cải tạo” về, đã không ngần ngại sử dụng lối thơ phá thể. Nhưng trong sự ràng buộc của cách gieo vần, vẫn thể hiện được nghệ thuật theo “quan niệm Dionysos”. Phải chăng trong một bát canh rau tập tàng, người nấu khéo, thấu hiểu tính năng của từng loại rau cỏ, có thể thêm thắt nhiều loại, và lại làm cho bát canh thêm thi vị. Ngoài đọt mướp, tàu bay, cải trời, có người cho thêm cả những đọt “hoa cứt lợn” tức cỏ hôi vào cho nồi canh thêm ý vị !
Tôi nhớ lời Tản Mạn của mình trên Tập san Thi Ca về vấn đề này :“Lời như nước chảy mây trôi, như bập bùng ma đuốc. Kẻ còn ở trong giới hạn tất nhiên của một kiếp người, có mấy khi tới được chốn của nước chảy mây trôi. Sao vẫn muôn đời đi tìm những quy định cho mây gió, mẫu mực của bao la ? Chỉ có tể là Thơ khi chất liệu của trần gian chảy qua máu xuống người thi sĩ, và trở lại là mây khói hư không. Giữa hai tầng trên dưới, Đẹp là chốn thăng bằng. Thơ đâu chỉ thuần cái Đẹp, đâu chỉ là Nhạc”. ( Bài “Tin sương luống những rày trông mai chờ”, ký bút hiệu Huyền Thạch)
Mấy câu thơ “truyền mạng” của Tô Thùy Yên qua bài lục bát “Hái rau” làm thú vị thêm về hai chữ “tập tàng”:
Chiều ra đồng hái rau hoang
Nghe buồn trong gió thổi tràn mặt da
Ơn trời ơn đất bao la
Hái đi này những xót xa kiếp người
Cổ kim chung một giải trời
Kinh thi cũng có bóng người hái rau
Lâu rồi nhật nguyệt tiêu tao
Tập tàng góp nhặt, trả hầu nợ thân
Cơ trời núi đổ, sông dâng
Miếu đường bay mái, thánh thần lạc thây…

( Còn nữa)

Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

TUYẾT THỊ KHÚC - LÊ NGỌC THUẬN

Thánh nhân cũng bị xuất huyết não
Quỷ ma vẫn nhồi máu cơ tim
Huống hồ ta phàm phu lục tặc
Nên em đừng giỡn mặt trêu ngươi

Bởi ta vốn thiêu thân bạt mạng
Yêu em rồi thiên địa lá khoai
Dù lòng em như câu đối cổ
Mà ta thì mù mịt Hán Nôm

Rượu uống đã xuyên ngày lủng tháng
Em mãi là mây, ta mãi say
Thời gian hờn tủi vòng kinh nguyệt
Khô héo vầng trăng xưa ai hay

Như thể ở vào thời đồ đá
Nỗi nhớ ta thô sơ thật thà
Và trái tim không hề son phấn
Gửi cho em trăm năm mặn mà

Tháng bảy trăng rằm rơi nhã ca
Vắng em Huế đã thành lão già
Sông Hương lẩm cẩm nghiêng dòng chảy
Đâu biết tóc người bay rất xa

Rượu đóng thành băng trắng u mê
Khi không mà giận nắng trong tê
Nghe mưa lại nhớ em rồi đó
Lặng lẽ chờ đêm về chiêm bao

Em có đôi mắt hồi mã thương
Có nụ cười cất dấu vô thường
Có tương tư gió qua bờ tóc
Thổi nghẹn ngào ngáng sợi tơ vươn

Ta chưa say sao rượu lại cuồng
Chảy khùng điên như ngựa không cương
Hình như mây lại bay theo gió
Bỏ Huế cho mưa loạn phố phường

Ta gõ vào khúc ca Cựu Ước
Mơ hồ mở cánh cửa Lăng Nghiêm
Xáo cả cổ kim tìm số mệnh
Thấy đời mình tuyết trắng triền miên.

Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

NÔN NAO TIẾNG GÀ GÁY SÁNG - CAO THOẠI CHÂU

Đất nước có đôi lần bị mất
Một ngàn năm không thực sự quá dài
Thời gian ấy có thể là tấm lịch
Treo lên tường cho nhà cửa thêm vui

Mất, và chưa bao giờ không giành lại được
Chưa bao giờ đất tự bỏ ra đi
Đất vẫn của người như da với thịt
Cóng đêm đông rát bỏng trưa hè

Đất của những bàn chân in dấu
Thời gian không xóa được bao giờ
Đất chật in cả chân lên đá
In lên sông ngòi lên biển khơi xa

Bao thế hệ người rầm rập đi qua
Dấu in lại trên từng trang sách
Trên câu thơ câu hò tiếng hát
Từng lời ru sóng vỗ đôi bờ

Bàn chân đi nới rộng sơn hà
Chân đất có cả chân cành vàng lá ngọc
Công chúa ơi thuở nào rơi nước mắt
Dấu chân người in trên đèo Hải Vân

Đất của những bàn chân tình sử
Đặt lên tim nhau thấm mối tình nồng
Một sáng nào tim run lên bần bật
Tình yêu như quà tặng của cha ông

Đất có một đôi lần bị cướp
Nhưng đất không đi biệt bao giờ
Kẻ gian tế chỉ cướp đi phần xác
Phần hồn sừng sững núi non kia

Và hôm nay tức là mãi mãi
Tình đi xa xứ lại quay về
Cảm động đến làm rơi nước mắt
Lệ lại hòa hồn cốt núi sông kia
16-3-2012

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

BÀN TAY CHÀNG - NHÃ CA



anh gửi bàn tay trên tóc em
những ngày xa mái tóc hao mòn
bàn tay báo hiệu mùa đông tới
năm ngón mềm ôm tuổi thiếu niên

quả phượng vừa khô trên nhánh cao
cây vừa hiu quạnh cổng trường sâu
tôi về ngó lại thời con gái
thành phố già nua những gốc sầu

tóc hết thời xanh, hết tuổi dài
hồn bưng bình mật đắng tương lai
xa chàng thức dậy khi chiều tối
những ngón tay mềm vuốt mặt tôi

NHÃ CA

Thứ Hai, 19 tháng 3, 2012

NỖI LO - PHAN LỆ DUNG

Làng tôi không xa thành phố
Đi một vòng xe buýt là đến nơi
Ruộng cạn, ruộng sâu không có ranh giới
Con đê làng líu ríu chay quanh
Thường thì mùa xuân đến chậm
Bởi cánh đồng đất vẫn còn ươm
Những người nông dân da đen sạm
gánh mạ trên vai
thả giấc mơ vào cánh đồng lúa chín
Nơi ấy mùa xuân về không hẹn ngày đi
Chiều, người già ngồi mơ hạt gạo trắng
Mắt mở lim dim
Thiếu nữ xinh như cánh bướm
Nhìn mây ái ngại
Sợ ngày mai mưa bão
Lũ trẻ con thấp thỏm
ra bến sông mong thấy mặt trời xuống nước
Người đi đường lấp ló cơn mưa trong mắt
rì rầm lời cầu xin mưa thuận gió hòa

Tôi về
Một chiều hè trời mây xám
Gió thổi xéo qua làng
Chị tôi chờ tôi bên ao nước cạn
Khuôn mặt ráo hoảnh mồ hôi
thảng thốt ngó trời
Nỗi lo ngấm trong khóe mắt

Tôi hết nhìn chị lại nhìn ra sông
Hai con cá bống chết khô trên bến cát

Gió thổi dạt những ngọn lá về phía chân cầu
để lại bên đường tia nắng yếu ớt
nằm vắt trên vạt cỏ khô nhợt nhạt.
Trời vẫn không mưa

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 7 ) - VÕ CHÂN CỬU

Hoa Lưỡi Cọp

Vào đêm, lối đi trước cửa bỗng ngân lan thoảng một mùi hương thanh khiết. Tìm kỹ, mới hay nó từ mấy chuỗi hoa lưỡi cọp.
Nhiều nơi chỉ biết trồng nó vô chậu nhỏ, đặt trên kệ đầu giường vì ban đêm lá tuôn thêm dưỡng khí. Cánh hoa bé, không đẹp, mùi hương âm thầm chỉ dành cho bạn tri âm. Cõi thơ ca hình như cũng vậy.
Mỗi người làm nghệ thuật thường diễn tả theo cách sử dụng ngôn ngữ riêng. Không như vậy thì những gì vẽ hoặc nói, viết ra chưa thể là tác phẩm. Ngôn ngữ riêng ấy không thể tự nhiên mà có. “Thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào” sẽ làm nên những gì vô nghĩa.

Mưa vẫn mưa bay…
“Diễm xưa” tương truyền là một trong những bài hát đầu tiên được Trịnh Công Sơn viết ngày còn học trường Sư phạm Quy Nhơn. Khi bản nhạc được nhiều người hát, và tên tuổi nhạc sĩ họ Trịnh ngày một vang dội, thì người ta phân tích nhiều những lời hát như thơ của ông. Đất Quy Nhơn với Thành Đồ Bàn từng là mộ trong các kinh đô của người Chăm. Bài hát tưởng như được gợi cảm từ những toà tháp cổ. Nhưng có người khi đó đã nói rằng không phải vậy. Tại Miền Nam, thời điểm giữa những năm `60, quân đội viễn chinh xuất hiện ngày càng đông, kéo theo phim ảnh, sách vở cùng những luồng văn hóa ngoại lai. Phụ nữ thành thị lúc này lại có mode bới tóc theo hình con nhím (khởi đầu trước đó từ Trần Lệ Xuân, và từng bước được cách tân). Tầng tháp cổ chính là một cách diễn tả về mái tóc trên cổ của cô gái vai trần. Thật thú vị về cách sử dụng ngôn ngữ của nhạc sĩ họ Trịnh. “Còn hai con mắt khóc người một con”, nguyên văn từ một câu thơ của Bùi Giáng được nhạc sĩ dùng ở một bài khác để nói về “gái một con” chứ không phải khó hiểu là “khóc một con mắt”, có người cũng bình tán phong phú thêm như vậy.
Chiến tranh và những nhiễu loạn xã hội lúc này làm bùng phát nhiều dòng sáng tác đa dạng. Các luồng triết học từ Heideger đến Jean Paul Sartre với các chủ nghĩa hiện sinh, hư vô xâm nhập bừa bãi vào đầu óc một số người trẻ. Thiền học được xiển dương như một sự cứu rỗi. Sự hỗn loạn trong tâm thức khiến một số lớn người trẻ bị sách vở mê hoặc. Không ít người làm được dăm bài thơ đã tưởng mình là “thiên tài” đã vội vàng bỏ học vì “khinh bỉ học đường. Trường phái “tiểu thuyết mới” và những “cách tân thơ ca theo hướng hiện đại” đã nẩy sinh nhiều nhà văn nhà thơ dù học hành chưa đến đâu, chưa viết nổi câu văn ra cau đã vội vàng đưa ra những cách thể hiện mới. Thảng hoặc có những sáng tác ghi dấu ấn thì có những bài thơ không nhịp điệu. Những hình ảnh thô tục, câu thơ lạc điệu với những tương phản được biện minh là những “công án”, một cách “Phùng Phật, Sát Phật”, hay “chối từ thượng đế” của các cây bút hiện đại. Từ ngàn đời nay, thiên hạ đã phân định chỉ có hai loại “thơ hay” hoặc “thơ dở”, thì lĩnh vực thơ hôm nay sự phân loại hình thức thêm rắc rối bỡi những gán ghép nào là “thơ tư tưởng”, “thơ thiền”,”thơ văn xuôi”.v.v.

Điên !
Tôi cũng nhiều lần phải chìm đắm bởi những khúc hòa âm vạn vật. Chiều xuống, vũng nước đầu hè vang lên tiếng chẫu chàng. Góc cuối, âm vang động vật đáp lại. Rồi tất cả mọi côn trùng:những con ong về tổ; ve ran dưới lùm cây. Tất cả cùng ngân nga. Mỗi sinh vật trên đời đều muốn chứng minh sự hiện hữu; đây là khoảng trởi riêng của mình. Vuông giống trời lấm tấm những vì sao.
Con người sau những lo toan vật chất cũng đều muốn tự khẳng định mình. Nhà thơ có cách thể hiện riêng. Do nhiều nguyên cớ nên giai đoạn 1968-1975 lại có những thi sĩ lại muốn giới thiệu mình trong vóc dáng “điên”.
-“…đang ở ẩn. Ai cần gặp xin liên lạc theo địa chỉ…” Người ta bắt đầu đọc được trên tạp chí Văn những dòng nhắn tin cậy đăng như vậy (phải là tác giả đã có nhiều bài được in thì tòa soạn mới nể nang cho cậy đăng). Đã ẩn tu mà vẫn nhắn tin cho mọi người biết ! Một số nhà thờ bắt đầu “điên” đã tự quảng bá mình như vậy !
“Điên” lúc này như một cách biểu hiện cá tính của nhiều lớp người, từ trí thức nghiên cứu, giáo sư giảng dạy. Nhiều nhất là các văn nghệ sĩ. “Điên” có xu hướng là một mốt thời thượng. Theo cách hiểu của người đời, “điên” là có những hành động, cử chỉ, thậm chí cả trong suy nghĩ khác với bình thường. Mỗi con người sống, thường chỉ xoay quanh những lo toan về vợ (chồng) con, gia đình, cơm áo…Văn nghệ sĩ thì hay mơ mộng, tưởng tượng ra những điều không thực nên có thể có những sinh hoạt khác thường. Họ dễ bị người đời gán ghép là…điên.
Y học có cụm từ “tâm thần phân liệt” để miêu tả trạng thái bất bình thường trong hệ thống thần kinh của con người. Tùy theo mức độ nặng nhẹ của sự phân liệt thần kinh để kết luận dấu hiệu tâm thần. Mỗi người qua nhiều sự cố hưng phấn quá độ hay ức chế đều dễ bị phán là bị “phân liệt”. Như vậy hiểu theo rộng thì con người rất dễ bị “điên”; nếu đi khám bác sĩ ai cũng dễ bị sa vào cảnh tâm thần bị phân liệt. Con người rất dễ bị điên. Nhưng có những kiểu điên “đẹp” và…điên loạn. Theo cách hiểu thông thường, một người chỉ bị coi là điên khi liên tục nói xàm hoặc xé quần xé áo, ở truồng ra đường.
Văn nghệ sĩ điên…theo kiểu không giống ai. Có lẽ do bị ảnh hưởng từ các thi sĩ Pháp (Tôi nhớ Rimbeaux với Verlaine, Hai chàng thi sĩ chóng hơi men...)nên gần những năm `40 thế kỷ 20, nên nhiều nhà phê bình đã xếp Hàn Mặc Tử và Bích Khê vào trường thơ “điên loạn” khi các thi sĩ này gào lên : “ta cởi truồng ra, cởi truồng ra…”
Các thi sĩ Việt Nam lúc chiến tranh Việt Nam lên cao độ đã “điên” ra sao ? Mở đầu cho cao trào điên có lẽ là nhà thơ Nguiễn Ngu Í quê ở Bình Tuy, được tạp chí Bách Khoa “lăng xê” khá nhiều vào trước và sau những năm thập kỷ `60. Ông sinh năm 1921, năm 1941 có lần bị điên thật, vào nhà thương điên chữa bệnh, một năm sau hết điên, nhảy vào làng văn trận báo, sáng tác nhiều bài thơ yêu nước. Ông có lối “cách tân” kiểu xếp vần chữ quốc ngữ khi thay chữ “y” bằng chữ “i”, quê viết là “qê”(bỏ nguyên âm “u”). Lối xếp chữ ấy về sau có một số người dùng ( như Trần Huiền Ân…) nhưng ít có ai bị xem là…điên. Thì ra Nguiễn Ngu Í còn đưa ra nhiều luận thuyết về lịch sữ, xã hội, con người…Điên như Nguiễn Ngu Í được sách báo cho là điên…thông thái. Năm 1977 ông vào ở hẳn trong Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, hai năm sau thì mất.
Tới hôm nay, ngồi nhớ lại, tôi nghiệm ra là khi chiến tranh cao điểm , không phải chỉ ở Miền Nam mà cả trên đất Bắc, nhiều người có học cũng…giả điên. Ngay sau 1975, tôi đã gặp một số người làm thơ từ đất Bắc vào, mắt họ lúc nào cũng xa vời, nhíu mày, miệng lẩm bẩm như đang nói thầm. Thì ra, để được an nhàn, ít bị dòn ngó, có người vẫn giữ thói quen đóng kịch. Rằng mình đang chịu khó tư duy công tác cấp trên giao…Thời thế vẫn làm đảo điên con người.
Nhưng ở Miền Nam, ly kỳ nhất trong các kiểu điên lại thuộc về thi sĩ Bùi Giáng. Khoảng năm 1965 các báo ở Sài Gìn đưa tin căn nhà trọ nơi thi sĩ Bùi Giáng ở trên đường Bà Hạt bị hỏa hoạn. Ngọn lửa thiêu hủy tất cả bản thảo, sách vở, tài liệu khiến Bùi Trung niên thi si” hỗn loạn tinh thần, mong rằng ông không…hóa điên.

Thần Tiên lâm nạn
Bùi Giáng sinh năm 1926 tại huyện Duy Xuyên, Quảng Nam.Theo một số người có họ hàng xa gần với Bùi thi sĩ, người thi sĩ tài hoa kỳ lạ này đã bị chấn động tinh thần kể từ khi người vợ yêu quý của ông bị chết trong trận lụt kinh hoàng năm Nhâm Thìn tại làng Vĩnh Trinh, Quảng Nam cách nay 60 năm. Hình ảnh trận lụt và bóng dáng người yêu dấu ấy được thể hiện rất nhiều bài thơ tả cảnh làng quê ông, kể cả trước trận lụt lịch sử , như Người con gái lội qua khe, Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau… (nhiều nhất là trong tập trong tập Mưa Nguồn. Hoảng loạn tinh thần khiến tài năng càng phát tiết. Bùi Giáng càng làm nhiều thơ, dịch sách, khi vào sinh sống, dạy học ở Sài Gòn còn viết cả sách việt văn luyện thi trung học đệ nhất cấp ( các giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị). Sau trận hỏa hoạn 1965, Bùi thi sĩ sa vào chơi chữ, kể cả khi dịch thuật. Các sách của Bùi Giáng như Đi vào cõi thơ, Thi ca Tư Tưởng, Mùa Thu trong Thi Ca…lúc này có sức thu hút lạ kỳ. Nhiều bạn trẻ làm văn nghệ theo sau đã …bắt chước điên. Viết về Bùi Giáng, sau đó có người viết để…không ai hiểu gì cả, chữ nghĩa lộn tùng phèo, mộng và thực, huyền thoại và điển tích…đè lên nhau. Chính các tạp chí có uy tín như Văn, Khởi Hành khi làm các số đặc biệt về Bùi Giáng cũng bị lầm lạc khi cho in những bài phê bình có giọng văn bất thành cú của một tác giả trẻ bắt chước sách Phạm Công Thiện bằng cách…bỏ học từ năm lớp 11. Các bài viết này tất nhiên vẫn trích dẫn rất nhiều câu tiếng Pháp, tiếng Đức, đôi khi thêm cả những âm tiếng Phạn để chứng tỏ mình thông thái. Nhiều người tỉnh táo nhận ra rằng các thi sĩ lớn cũng đều có tật xem cái danh rất lớn. Suốt cả các trang viết, kể cả khi tự nhận rằng mình điên, Bùi thi sĩ không hề khen một câu thơ nào của các nhà thơ Việt Nam cùng thời (trừ một lần duy nhất có nhắc đến tên thi sĩ Huy Tưởng trong “Đi vào cõi thơ”). Có lần Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn tình cờ gặp nhau tại nhà tôi, cả 2 đều sững người nhìn nhau rồi…ngó lơ như không hề từng biết nhau !
May mắn sao, các nhà thơ…giả bộ điên chỉ để chứng tỏ mình tài năng, thông thái, không ai lâm vào cảnh “giả lâu thành thiệt”. Đến sau 1975, diễn đàn văn nghệ tự do chất dứt. Miếng cơm, manh áo trở thành nỗi lo thực tế. Xu thế bây giờ phải là…vô sản mới được coi trọng. Nhiều người liền…hết điên.
Riêng Bùi Giáng vẫn đắm chìm trong cõi phiêu bồng, tự xem mình là…đười ươi. Với ông, chữ nghĩa, âm điệu như là…trò chơi trong cõi ta bà. Hãy nghe Bùi Đười Ươi thi sĩ giải thích:
“Thần tiên có bao giờ lâm nạn hay không, quả nhiên không ai dám quyết đoán điều đó. Nhưng quả thật những chú thi sỹ thuộc nòi Nerval, Hoelderlin, Traki, Beaudelaire, đã từng gặp nguy nan suốt bình sinh sinh tử sinh liều giữa Trận Tiền Ngôn Ngữ. Và sau cuộc sinh tử còn mang nặng u buồn của Chín Suối ? Hoàng Truyền Tại Thể chẳng hề thấy họ ngậm cười hây hây ? Tình huống ấy có thể kéo dài dằng dặc lâu lăng lắc đằng đẳng bấy chầy cho tới những ba trăm năm…hoặc hai trăm rưỡi, hoặc một trăm rưỡi ba phần tư năm chẳng hạn. Tạm gọi đó là tình huống của thần tiên thiên tần lâm nạn kéo dài tình trạng dằng dặc cửu nguyên Hoàng Tuyền Tại thể ngất tạnh mù tăm…(Trích bài Thần tiên và Thi sỹ- Tập san Thi Ca,, tháng 3-1975).
(Còn nữa)

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

ĐÓN ĐỌC TÁC PHẨM MỚI CỦA CAO THOẠI CHÂU

Vách Đá Cheo Leo

52 Tạp văn + 52 bài thơ mới nhất
của Cao Thoại Châu

Viết về những cái nhiễu nhương “thời thổ tả”.

Bạt của Hùynh Thị Nhung ( họa sĩ) gọi đó là “Những mảnh vá” và bạt Nguyễn Liên Châu (nhà thơ) viết “Tưởng như vặt vãnh nhưng kỳ thực, đó chính là những lỗ nhỏ đắm thuyền”
*Nhà xuất bản Hội Nhà Văn
260 trang trắng tinh sáng màu rực rỡ khói sương.
Có 50 bản đặc biệt mắt người thường đọc không thấy..
Phát hành ngày 1-4-2012/ Muốn mua qua bưu điện, vui lòng
liên lạc với thoaichaucao@gmail.com
hay ĐTDĐ 0903106359

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012

BÃO NHỚ - LÊ NGỌC THUẬN




Tình không thể luận bàn
Nên anh đành phải uống
Rượu vốn là vắng lặng
Anh nhai thành âm thanh
Để nghe trong di động
Tiếng em cười rất xanh

Bão bắt đầu đập phá
Mưa không còn ngây thơ
Gió xoáy đời lận đận
Vây quanh cuộc tình hờ

Rượu còn đúng một ly
Anh chia làm hai chén
Một cho em phương đó
Một cho anh nơi này
Mặc bão quậy quẩn quanh
Anh ngồi đây da diết
Nhớ đôi mắt tiêu hành.


Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

PHÍA - CÓ - EM - HOÀNG LỘC



trái đất quay hoài không biết mệt
và ta riêng chịu những ưu phiền
tiếng chuông gióng mấy hồi xa biệt
mà giáo đường chưa ngớt áo em

ta sống một đời không dối trá
trái tim còn đọng những hồi chuông
em không về, em không về nữa
mà sắc hương kia vẫn rất buồn

có lúc ngàn mây ta thấy được
màu trăng màu áo của xa xưa
biết khi gió nổi làm em khóc
ngấn lệ còn nguyên mỗi sững sờ

không thể ngồi khuya cho tới sáng
cùng che gió thắp lại ngọn đèn
ta theo trái đất qua ngàn dặm
lòng cứ quay về phía-có-em

2-3-12

HL

Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

CHƯỚC VỊNH - LÊ NGỌC THUẬN

Nón bài thơ ngu ngơ ngọn gió
Chó hoàng cung ớt sả truy lùng
Lật tung gỗ ngói đâu nhan sắc
Nghe tiếng cười dọc đò sông Hương

Ta hóa Vương gia ngồi uống rượu
Nhắp môi chờ bóng của Vương phi
Bao năm tiếng trống không còn dội
Bướm xanh buồn chết giữa Kinh thi.

Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

THÌ YÊU NHƯ THẾ - ĐÔNG HÀ



thì không chi nữa cũng là
cũng hoa lá cũng sa đà tấm thân
cũng vui lem lấm bụi trần
có ra chi cũng là phần lỡ trao

nên giờ sóng vỗ ba đào
thì mong chi cái lao đao lại dừng
lại cay lại đắng lưng chừng
lại thương nhớ hết nỗi mừng nỗi vui

nên em giờ biết ngậm ngùi
biết yêu như thể khóc vùi một đêm...

ĐH

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

GIANG HỒ TRUYỆN - ĐINH THU

Ta hành hiệp bình sinh kiếm gỗ
Nội công run rẩy trước dung nhan
Vào tửu điếm vài ly say oắt
Bộ dạng Tiêu Phong rời Cái Bang

Giữa đồng vắng tâm cuồng tay hứng
Thấy Lệnh Hồ Xung chợt bàng hoàng
Ngỡ Trung Nguyên vắng Vô tình kiếm
Nhiễm thói đời múa gậy vườn hoang

Ngán cảnh treo cây sư Bất Giới
Quay đầu theo Phương trượng Thiếu Lâm
Tàng kinh các ngày đêm đọc sách
Nuốt cơm chay nước mắt không cầm

Qua Võ Đang tưởng đâu ngã mặn
Té thiền sư giống tổ Tam Phong
Bái biệt Hoa Sơn thôi luận kiếm
Côn Luân Tam Thánh hết hoài mong

Đến Không Động mà tâm vẫn động
Tập bao quyền cước thiếu lực kình
Thương Ma giáo nhưng không thụ giáo
PháiToàn Chân mà giả thất kinh

Ra Quan ngoại sợ chiều sa mạc
Bão cát bay tan tác võ môn
Sở Lưu Hương biệt vô âm tín
Mơ sáng ra chưa mất linh hồn

Đêm kỷ viện đèn lồng trướng rủ
Tung vô chiêu người ngọc liên thành
Thân chiến bại từng vô song kiếm
Gặp má hồng mồ cỏ lên xanh

Đời cô độc Độc Cô Cầu Bại
Chiều Nga My nhớ mắt ni cô
Ngộ giai nhân kinh văn quên hết
Bí kiếp sư môn rụng đáy hồ

Nũ lưu hiếm có Chu Chỉ Nhược
Mặt hoa tối độc phụ nhân tâm
Trương Vô Kỵ cung tay gác trán
Ta chờ thiên cổ rút gươm đâm

Cổ Long bị hại đành yểu mệnh
Kim Dung viết lại chưởng ngày xưa
Kiếm hiệp kỳ tình không Kim Cổ
Ta buồn phiền chán lục lâm chưa

Ôi mới biết giang hồ hiểm ác
Quy ẩn miền quê học đuổi gà
Bằng hữu đến mài dao cắt tiết
Gặp quần hùng vi bộ lăng ba

Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 6 ) - VÕ CHÂN CỬU




Những dòng suối

Con suối nhỏ chảy qua nhà tôi liên tục đổi màu. Người ta đưa xe ũi khai thác cát dọc những triền đồi, bơm nước rửa rồi chở đi. Những trận mưa lớn cũng không thể làm màu nước trong trở lại.
“Văn học là nhân học”. Nhưng có lẽ do con người vẫn chưa hiểu hết về chính mình, nên văn học và lãnh vực thơ ca - cũng không hoàn toàn theo quy luật của dòng chảy.
Từ giữa thập niên 60 thế kỷ 20, chiến tranh đã áp sát từng cửa sổ lớp học. Biểu tượng 3 cây súng chụm vào một vòng tròn và dỏng chữ “Make Love Not War” đang là một thời thượng. Sau thời kỳ “hoan hô, đaã đảo”, nhiều thanh niên đã xem Phạm Công Thiện và sách “Ý thức mới trong văn nghệ, triết học như một loại kinh thánh”. Họ bắt đầu nghi ngờ và phủ nhận tất cả mọi giá trị để nghiêng về “chủ nghĩa hư vô”. Nhưng các nhóm giựt dây của “Phong trào tranh đấu Miền Trung”- khơi nguồn từ Đại học Huế với báo Lập Trường- không phải đã không làm được việc. Đội ngũ sáng tác với những câu chữ đầy máu lửa, nhân danh và cổ vũ “đòi quyền sống” ngày càng xuất hiện, đa dạng, cả trong những người đang cầm súng. Tới cuối thập niên `60, một số cây bút tranh đấu thuộc lớp trẻ này đã tập hợp tự làm các tờ báo văn nghệ. Đáng kể nhất có nhóm “Việt” ở Huế, “Ý thức” ở Phan Rang (sau chuyển vào in ở Sài Gòn), Nhân Sinh ở Nha Trang, Hồn trẻ 20 của Cần Thơ…
Các nhóm văn nghệ tự ra báo gần như là một diễn tiến hợp quy luật. Người cầm bút sáng tác trưởng thành dưới các mái trường trung học ngày một đông. Chế độ “kiểm duyệt” và cách quản lý nhà in của chính quyền Miền Nam tuy có nhưng vẫn tương đối “dễ thở”. Máy quay Ronéo đời mới (IBM) lúc này đã được nhập về ở Sài Gòn và các đô thị lớn. Ở đâu, các bút nhóm cũng có thể tự ra tập san văn nghệ, lập nhà xuất bản riêng. Báo văn nghệ in typo và tập hợp được nhiều cây bút vững vàng, tiêu biểu là tờ Trước Mặt ở Quảng Ngãi. Theo nhiều nhận xét, đa phần các cây bút “tranh đấu” đều có tham vọng hoạt động chính trị; có người đã “hoạt động ngầm”. Sau 1975, khi thấy “công lao” của mình không được “trả công” bằng các vị trí lãnh đạo, nên nhiều người đã trở mặt, biến thành những cây bút “đối kháng”.

Thắp Đường
Năm 1968, khi tôi đi khỏi mảnh đất Quy Nhơn, thì những người cùng thế hệ cũng đều không thể tránh khỏi những xung đột tinh thần mà thời cuộc mang lại. Do đặc điểm của vùng đất có truyền thống văn học nên mỗi người cầm bút qua trang giấy đã chọn cách giải tỏa tinh thần riêng. Thầy giáo Nguyễn Mộng Giác mượn truyện chưởng của Kim Dung giải bày những suy tưởng về xã hội, nhân sinh. Đặng Tấn Tới bỏ bút hiệu Vũ Thúy Thụy Ca, đi vào làm thơ siêu hình. Còn Mường Mán, Phạm Cao Hoàng…từ các tỉnh về học sư phạm lại trải lòng qua những câu thơ ngọt ngào tình yêu, quê hương…Lớp cầm bút chủ lực ở các trường trung học đệ nhị cấp lại muốn bứt mình khỏi sự chi phối của nhà trường, như để khẳng định rằng mình đã trưởng thành.
Có một nhóm trẻ năng động, bao gồm cả những người có năng khiếu đàn hát, trình diễn. Họ muốn là một tập san văn nghệ in Ronéo riêng. Đặt tên gì cho tờ tập san đây ? Cuối cùng, tất cả đồng ý với chữ “Thắp đường” mà Đinh Văn Liên, trưởng nhóm Thi văn đoàn Đồ Bàn cũ đưa ra. Thắp lên ngọn đèn sáng để tìm ra đường đi riêng của mình. Tập san quay ronéo đóng tập có sự góp mặt của cả những cây bút đàn anh đã rời trường, như Nguyễn Mạnh Dạn (Nguyễn Mạnh Song Ka), Trần Hữu Cải v.v. phát hành được 3 số, rồi tự dẹp tiệm. Lý do là ai nấy đều phải vào kỳ thi tú tài. Phần khác, có lẽ vì tờ báo chỉ tập hợp các sáng tác của từng người riêng lẻ, không có một “đích nhắm” chung trên con đường văn học. Đó là nhận xét của Liên khi anh đã trưởng thành. Thành viên của nhóm khi vào đời mỗi người chọn một con đường riêng, có người sau 75 qua Mỹ mới sáng tác trở lại !
Diễn biến trên cho thấy không phải tất cả nguồn suối đều đến được với dòng chảy văn học. Nhà văn Trần Phong Giao, thư ký toà soạn đầu tiên và lâu năm của tạp chí Văn từng thổ lộ: báo văn nghệ muốn tồn tại vững vàng lâu dài thì không thể số nào cũng chỉ là một tập hợp sáng tác thơ văn. Quan điểm nghệ thuật của người hoặc nhóm cầm chịch quyết định sự sinh tồn của nó !
Nhìn lại 20 năm văn nghệ Miền Nam, số lượng đầu báo, tạp chí thuần túy văn học nghệ thuật không nhiều. Sau thời kỳ khai mở của các nhóm tạp chí Sáng Tạo, Văn Nghệ, mãi tới năm 1966 mới có tờ Nghệ Thuật, tạp chí văn nghệ đầu tiên ra hàng tuần. Tờ này đăng nhiều sáng tác của các tác giả trẻ. Sáng tác mới đều mang tính đột phá, tìm tòi cách thể hiện mới. Nhưng tờ báo này đến 1968 cũng chấm dứt. Giữa 1969, nhà thơ Viên Linh, thư ký tòa soạn của tờ Nghệ Thuật được Chủ tịch Hội văn nghệ sĩ Quân đội mời về làm thư ký tòa soạn tờ văn nghệ Khởi Hành đang sống dở chết dở. Ông Viên Linh được giao toàn quyền về nội dung. Trang “Thơ có lửa”-thơ của lính- được thu lại còn một mục nhỏ mang tính chất “mâm cỗ thờ cúng” một thời gian rồi biến mất luôn. Tuần báo Khởi Hành sống mạnh và khẳng định tên tuổi nhiều tác giả trẻ. Nổ lực của các tờ báo chuyên về văn nghệ như Nghệ Thuật, Khởi Hành đã kích thích, quy tụ những người làm văn nghệ ở các “tỉnh lẻ” thành các nhóm riêng. Dù nổ lực đến mấy đi nữa thì chưa có tờ báo “văn nghệ tỉnh lẻ” nào so được với các tạp chí văn nghệ xuất bản tại Sài Gòn. Các tờ văn nghệ dù được các tổ chức chính trị, tôn giáo tài trợ, hay tự phát hình thành bởi các nhóm sáng tác riêng lẻ, cũng không thể sánh được với những tạp chí văn nghệ tên tuổi như Van, Bách Khoa, Vấn Đề, Văn Học, Khởi Hành, Trình Bày… Theo ghi nhận của một cây bút chủ lực của nhóm “Việt”, thì dấu ấn (tự hào) sau `75 là: một số ngòi bút trong nhóm đã được công nhận là “Hội viên Hội nhà văn VN” !

Nghệ thuật là nghệ thuật
Sẽ cứng nhắc và thô thiển khi cho rằng dòng chảy VHMN chỉ bao gồm những ngọn sóng của các tạp chí lớn nêu trên. 80 % người Việt Nam là thi sĩ nên từ các báo hàng ngày đến các tập san thuộc loại giáo dục kiến thức, giải trí đều có trang văn nghệ đậm nét. Tờ Phổ Thông của nhà thơ, nhà báo lão thành Nguyễn Vỹ ngoài chuyện “Tuấn-chàng trai nước Việt” ăn khách còn có mục Tao đàn Bạch Nga đăng rộng rãi sáng tác của hội viên. Cũng thật bất ngờ khi Tao đàn này phát hiện và nuôi dưỡng nên một Trần Tuấn Kiệt, người sau này được làng văn mệnh danh là một trong rất ít người dành trọn cuộc sống cho thơ ca. Quê ở Sa Đéc, sau khi được Tao đàn Bạch Nga phát hiện, Trần Tuấn Kiệt lên hẳn Sài Gòn làm báo. Để nàng thơ sống được, Trần Tuấn Kiệt đã xâm mình viết tất cả thể loại, từ truyện ngắn, tùy bút, truyện dài “phơi-dơ-tông” cho báo ngày đến…truyện chưởng, sách dạy võ…Khoảng đầu những năm `70, tôi tìm đến thăm. Ông ở trọ trên một căn gác xép đường Phan Đình Phùng, gần chợ Vườn Chuối. Nghe xưng danh, ông rút từ xấp bản thảo mấy trang in những bài thơ của tôi mà ông đã xé ra từ các tạp chí Văn, Bách Khoa. Kèm theo đó là những lời “bình thơ” mà ông đã viết. Gặp tôi, ông thêm vào trang viết mấy dòng: “Chàng thi sĩ trẻ có tên và dáng người như võ sĩ, nhưng tâm hồn lại rất phiêu du…” ! Bản thảo lần lượt được ông đi thuê đánh máy thuê để giao nhà xuất bản. Sách có tên đại ý là “Hợp tuyển thi ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX”. Đến gần `75, tuyển tập này đã in được 2 tập dày cộm, đóng bìa cứng. Kiểu sưu tập và bình thơ này về sau được khá nhiều “nhóm biên soạn” bắt chước. Tất nhiên, các nhà “sưu tập” sau, không ai viết được lời bình hay như ông. Bỡi lẽ, nhà thi sĩ gốc Nam bộ giang hồ ở làng văn trận báo này mãi mãi vẫn mơ tưởng :
… Mai ta về bên núi
Mà cất am tỵ trần
Vẽ hình nàng trên gối
Ngồi ngắm suốt mùa xuân…
Cách nay vài năm, người thi sĩ bạt mạng này đi tá túc tuổi già ở một ngôi chùa ngoại thành. Ông không thực hiện nổi ước mơ sáng lập ra một “Đạo” mới như đã từng tuyên bố ngày trước.
Các nhà thơ của những năm`60 nay còn được nhiều người nhắc, như Thiếu Khanh, Lâm Vị Thủy…đều không xuất thân từ một tờ báo chuyên văn học nghệ thuật. Trong lãnh vực văn xuôi, Cung Tích Biền từ khi xuất hiện trên tuần báo Nghệ Thuật đã gây dư luận; nhưng đến tận 1975 ông vẫn chưa lần nào xuất hiện trên tờ tạp chí văn nghệ nhiều uy tín là bán nguyệt san “Văn”.

Nhiều người tổng kết rằng chính lúc xã hội vào cao điểm loạn lạc, thì văn chương càng có cơ hội phát triển, làm nẩy mầm nhiều tài năng. Có lẽ cần nói thêm rằng nếu xã hội có tinh thần cởi mở, thì các tài năng văn nghệ còn phát triển tột độ. Trong hoạt động văn nghệ, sự cởi mở cần có, trước tiên ở các nhà quản lý và những người cầm chịch các cơ quan, phương tiện truyền thông. Cởi mở là biết lắng nghe và chấp nhận những cách thể hiện tư tưởng, bút pháp khác với của nhóm và cá nhân mình. Chính nhờ vậy, vào giữa những năm `60, một số cây bút mới đã trở thành “hiện tượng văn học”. Nguyễn Đức Sơn (Sao Trên Rừng) với tạp chí văn nghệ Mặt Đất do một mình ông tự biên tự diễn là một đột phá.
Nguyễn Đức Sơn (NĐS) sinh năm 1937 ở Phan Rang, theo học trung học tại Nha Trang. Khoảng đầu thập niên `60 ông đã có bài được chọn đăng ở các tạp chí văn nghệ hàng đầu như Sáng tạo, Văn Nghệ. Tuổi thanh niên, ông theo học trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Có lẽ do nhận thấy các tạp chí văn nghệ bây giờ đều do đội ngũ văn nghệ sĩ gốc Hà Nội di cư vào sau 1954 thống lĩnh nên muốn tạo ra một diễn đàn của riêng mình. Khoảng 1966, NĐS đứng ra chủ trương tờ báo văn nghệ xuất bản “bất định kỳ” mang tên Mặt Đất. Báo in typo khổ 40 x 60, chính ông vẽ Manchette và trình bày khá đẹp. Lần gặp lại gần nhất (tháng 2-2012), NĐS kể ông đã “ngoại giao” với đội ngũ xếp báo của một hãng phát hành để bỏ Mặt Đất vào trong tờ nhật báo Chính Luận đưa ra các tỉnh, trọng điểm là đưa ra cố đô Huế, quê gốc của ông. Tư tưởng đả phá nền “văn nghệ thống trị”(của đội ngũ các nhà văn gốc Bắc di cư vào) được một số cây bút mới ủng hộ, gửi bài cộng tác. Nhưng có lẽ do…không đủ tiền nên Mặt Đất chỉ phát hành được 2 số và dừng. 2 chữ “Mặt Đất” đã trở thành một dấu ấn cho những người cầm bút trẻ luôn khao khát sự độc lập trong sáng tác và xuất bản. Mặc dù NĐS luôn mồm chê bai, nhưng các tạp chí văn nghệ đúng nghĩa lúc đó vẫn luôn luôn sẵn sàng in các sáng tác mới của những tác giả độc đáo như NĐS. Giá trị nghệ thuật là trên hết.
Những năm đầu thập kỷ ’70, NĐS rất thân thiết với những tác giả trẻ như tôi, Nguyễn Miên Thảo, Thái Ngọc San.., NĐS lại nuôi giấc mộng sẽ biến Mặt Đất thành một nhà xuất bản có tầm cỡ, nơi cho ra đời những tác phẩm có trọng lượng. Nhưng…thời thế đâu phải lúc nào cũng chìu lòng người cầm bút. “Mưu sự tại nhân…”

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012

BÙI GIÁNG ,MỘT CHÂN DUNG HUYỀN THOẠI - HIỀN NGUYỄN



Trịnh Công Sơn từng có câu: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi… - “Để gió cuốn đi” hình như là một cái gì ám ảnh và đúng với nhiều thân phận cuộc đời con người mà Bùi Giáng là một trong đó.

Văn học Việt Nam có rất nhiều nhà văn lớn với những tác phẩm giá trị nghệ thuật nhưng điều đó không đồng nghĩa họ đều trở thành huyền thoại trong lòng công chúng. Riêng Bùi Giáng, dù còn nhiều tranh cãi về sự công nhận giá trị nghệ thuật thì ông lại được coi là một huyền thoại. Một định danh không phải ai cũng được gọi cho đến bây giờ, ngoài Bùi thi sĩ và Trịnh Công Sơn.
Đương thời, Bùi Giáng có nhiều bút danh như: Vân Mồng, Trung Niên thi sĩ, Đười ươi thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Báng Giùi… Những bút danh này dường như không nhất quán dưới mỗi tác phẩm, nó tuỳ thuộc vào sự ngẫu hứng của thi sĩ. Có thể vì điều này mà cho đến nay không ai biết chính xác Bùi Giáng có bao nhiêu tác phẩm và vô số dị bản. Có người bảo ông có khoảng 50 đầu sách, nhưng cũng có người khẳng định 70 đầu sách. Tuy nhiên, hiện giờ di cảo của Bùi Giáng chưa được công bố vẫn còn. Số di cảo xuất bản thành sách phải lên đến 10 tập nhưng mỗi năm gia đình nhà thơ chỉ chủ trương xuất bản một tập. Thậm chí, một số tin đồn cho hay, số lượng di cảo còn đầy vali - nhà báo Yên Ba; người sưu tầm tác phẩm của Bùi Giáng cho hay. Ngay cả nhiều người yêu mến và thích thơ Bùi Giáng khi nhìn vào số sách sưu tầm của Yên Ba - dù chưa đầy đủ hết cũng vô cùng ngạc nhiên vì số lượng những tác phẩm đã được in thành sách của Bùi Giáng lại nhiều đến vậy, có những cuốn mà họ chưa bao giờ được nhìn thấy, được biết đến.
Điều đáng ngạc nhiên nữa là chưa khi nào người ta thấy Bùi Giáng sáng tác nhưng lại có số lượng tác phẩm đáng kể đến vậy. Ông vừa làm thơ, vừa dịch tiểu thuyết, tiểu luận, khảo cứu triết học… Ông có thể đọc thơ, làm thơ mình mà không cần giấy bút, hoàn toàn bị động và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Để dẫn chứng cho nhận định trên, Yên Ba kể lại câu chuyện nhà văn Mai Thảo từng bắt cóc Bùi Giáng vào toà soạn của mình với lý do cần một số bài thơ cho số báo tới. Kết quả là Bùi Giáng đã để lại cho toà soạn hơn 20 bài thơ của mình.
Trong cuốn Đười ươi chân kinh của Bùi Giáng vừa được ra mắt gần đây có nhắc đến công việc gạn bỏ, chọn lọc của ban biên tập khi tiếp cận thơ của ông. Thơ Bùi Giáng, theo nhà thơ Trần Ninh Hồ thì “có những câu thơ hay nhất kiếp người, như: “Hỏi tên rằng bể dâu xanh/ Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa/ Ta về rũ áo mù sa/ Trút quần phong nhuỵ cho tà huy bay” (Còn có dị bản khác Hỏi tên rằng bể dâu xanh/ Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa/ Gọi tên? Rằng một hai ba/ Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm). Còn người khác thì cho câu: “Còn hai con mắt khóc người một con” là câu thơ giàu liên tưởng, triết lý. Hay câu: “Em về mấy thế kỷ sau/ Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không/ Ta đi còn giữ đôi dòng/ Lá rơi có dội ở trong sương mù”… Độc giả có thể biết vô số câu thơ như thể được viết ra trong lúc Bùi Giáng ở trạng thái xuất thần, lên đồng từ cõi vô thức, vô thường. Thế nhưng cũng có nhiều câu, nhiều bài lại rất vô thưởng vô phạt, kiểu như: “Mình ơi! tôi gọi bằng Nhà/ Nhà ơi! tôi gọi mình là nhà tôi”… Nếu gạt bỏ biết bao câu thơ xuất thần của Bùi Giáng, quả thật khi đọc những câu thơ này khó ai nghĩ đó là thơ chứ chưa nói là thơ của một thi sĩ huyền thoại.

Khi nào có thể lý giải được huyền thoại Bùi Giáng
Trong buổi toạ đàm thơ Bùi Giáng, giảng viên Trần Ngọc Hiếu của Đại học Sư phạm Hà Nội có đặt ra một câu hỏi: Cơ chế nào để Bùi Giáng trở thành huyền thoại? Câu hỏi này cho đến nay thực sự không mới nhưng để đi tìm lời giải thì không biết đến bao giờ. Bởi vì toàn bộ cuộc đời của Bùi Giáng cũng là một tác phẩm lớn với nhiều giá trị kèm theo những tranh cãi, hư thực đan xen. Ranh giới của tất cả những giá trị đó chưa bao giờ phân định. Mỗi khi một giả thiết, một nhận định được đưa ra thì ngay lập tức nó vấp phải sự phản biện, sự chứng minh ngược lại hoặc bị phủ nhận trong cái gọi là “dị bản”, “đồn đại”.
Nhà thơ Trần Ninh Hồ cắt nghĩa một phần “cái điên” trong con người Bùi Giáng, rằng đó là” Điên nửa thực nửa tỉnh và có cái thảng thốt của đời người”.
Còn nhà văn Phạm Toàn cắt nghĩa con người Bùi Giáng trên phương diện nghệ thuật: “Nghệ thuật là làm ra cái đẹp chứ không phải bình luận cái đẹp”.
Còn hoạ sĩ Ba Tỉnh - người đã từng gặp Bùi Giáng để vẽ chân dung ông theo trí nhớ, thì Bùi Giáng có cái điên khác thường “Cảm giác như Đôngkisốt của Việt Nam. Ông mặc theo ý ông, rất kiểu cách chứ không phải một người điên. Ông điên kì lạ, điên của người tài năng chứ không phải điên thông thường”.
Sự bất thường trong cái vô thường của một con người đã khiến Bùi Giáng trở thành một con người “nhoà” trong tất cả những gì lẽ ra phải cụ thể nhất ở một sinh thể. Ai cũng muốn góp bình luận, góp những gì mắt thấy tai nghe (bị/ được thêm bớt) để cố công tạo nên một chỉnh thể rõ ràng, nhưng càng làm càng thất bại và càng đi xa với hình mẫu chủ đích ban đầu. Vì thế, xung quanh cuộc đời ông, sự nghiệp ông còn rất nhiều câu chuyện thật giả lẫn lộn được kể và đánh vào sự tò mò của độc giả. Đó là lý do vì sao ông trở thành huyền thoại và chưa biết đến bao giờ câu chuyện huyền thoại này chấm dứt.
Cũng giống như Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng sẽ mãi là một hiện tượng mà chúng ta cứ mải mê đi tìm ngọn nguồn, biết là mất công, vô ích nhưng cứ dấn thân.



Hiền Nguyễn


(TOQUOC ONLINE)

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 -2012 (KỲ105)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1051 - Đặng Hoàng Anh
“QUẬN CHÚA BIỆT ĐỘNG”
Nông dân sinh 1928 tại Huế. Sống ở Lâm Đồng (2012).

Tên cũ Phạm Ngọc Diệp thuộc dòng dõi hoàng gia Huế (dòng quận chúa triều Nguyễn) nhưng đã sớm rời nhà đi kháng chiến chống Pháp.

Sau 1954 được đi Pháp học ngành y. Sau đó trở về Sài Gòn làm bệnh viện, lấy chồng bác sĩ lớn tuổi rồi được chế độ Ngô Đình Diệm tin dùng (nhờ họ hàng bên mẹ có quen biết nhà Ngô ở Huế) cất nhắc làm tới chức giám dốc bệnh viện Tuyên Đức (thuộc Lâm Đồng ngày nay).

Nhưng trong thời gian này vẫn hoạt động ngầm cho cộng sản tham gia một số hoạt động đánh phá chế độ VNCH. Sau biến cố đánh bom Tòa Đại sự Mỹ ở Sài Gòn, hành tung bại lộ nên phải bỏ trốn về miền Tây. Đến năm 1972 tìm đường quay lại chốn cũ Tuyên Đức thì bị bắt ở Đà Lạt.

Ở tù mắc bệnh (thời hoạt động có bị trúng đạn vào đầu) và nhờ quan hệ quen biết nhiều giới quan chức chính quyền thời đó nên một thời gian sau được giảm nhẹ tội thả ra. Được cộng sản tìm cách đưa ra Bắc an dưỡng.

Nhưng bệnh vẫn không hết để lại di chứng mất trí nhớ nên sau 1975 vào lại Sài Gòn phải đi mổ não thêm lần nữa mà rốt cuộc vẫn khi nhớ khi quên không tìm lại được đường dây hoạt động ngày xưa cùng các đồng chí cũ. Rồi lại bị mất hết giấy tờ không biết xoay xở thế nào dành sống tạm bợ được ngày nào hay ngày đó.

Mãi đến năm 1984 mới được làm lại giấy tờ lấy tên mới ngẫu nhiên Đặng Hoàng Anh. Sau đó lên lại Đà Lạt nơi còn một miếng đất đã mua sẵn từ thời làm giám đốc bệnh viện trên này. Từ đó sống bám vào mảnh đất, làm vườn sống qua ngày.

Năm 2008 có nhà văn biết chuyện mới viết lại tiểu sử cuộc đời bà, cuộc đời một “Quận chúa biệt động” thời cũ ba chìm bảy nổi mà thời mới cũng bảy nổi ba chìm!

1052 - Doan Hoang
LÀM PHIM HẬU – CHIẾN TRANH VỀ GIA ĐÌNH MÌNH
Đạo diễn phim tài liệu Việt kiều Mỹ tên cũ Hoàng Niên Thục Đoan sinh 1972 tại Nha Trang. Sống ở Mỹ (2012).


Cùng cha mẹ di tản qua Mỹ trên chuyến bay trực thăng dân sự cuối cùng vào sáng 30.4.1975, để lại 2 cha con người chị (đời chồng trước của mẹ, cả ông dượng này và cha ruột mình đều là sĩ quan chế độ cũ). Sau đó người chị cùng bà dì vượt biên bị hải tặc Thái Lan cưỡng hiếp trên biển rồi mới tha cho đi.

Tại Mỹ sau khi tốt nghiệp đại học đã theo đuổi nghề báo rồi làm phim, tất đều xoáy vào chủ đề cuộc chiến tranh VN đã qua nay vẫn còn để lại nhiều dư chấn trong đời sống người VN kể cả ở hải ngoại. Ngay từ năm 9 tuổi đã viết cuốn sách đầu tiên và năm 12 tuổi làm bộ phim tài liệu đầu tay đều về đề tài này: “Chúng ta đều bị ảnh hưởng chiến tranh nhưng chọn những cách khác nhau để xử lý mối ám ảnh này… Đã là ám ảnh thì khó quên.”

Từ đó năm 2000 quay lại quê hương lần đầu tiên dù bị cha phản đối. Tận mắt nhìn thấy những đổi mới trên quê hương, những con người và tư duy cũng thay đổi. Gặp lại ông chồng trước của mẹ và đặc biệt ấn tượng về 2 người anh em của ông, ông anh cán bộ từ Bắc trở vào vẫn ủng hộ cộng sản nhưng cực lực chống tham nhũng (nay ông đã mất), còn ông em nguyên phi công VNCH phản chiến từng đào ngũ vì có vợ theo cộng sản nhưng nay không quan tâm gì đến chính trị nữa!

Từ bao nhiêu nguồn thông tin, tư liệu sống ngồn ngộn đó, quay về Mỹ mới bắt tay làm bộ phim tài liệu dài đầu tiên “Oh Saigon” (Ôi Sài Gòn) lấy hoàn cảnh gia đình hải ngoại của mình làm nhân vật chính (bản thân lấy chồng nước ngoài). Mục đích là tìm cách tháo gỡ, hòa giải tâm lý mặc cảm của hầu hết người Việt di tản vì chạy trốn cộng sản nên phải đành đoạn chia tay đất nước.

Năm 2006 phim hoàn thành đoạt một số giải thưởng quốc tế ở Liên hoan Phim Châu Á – Thái Bình Dương, Liên hoan Phim quốc tế Brooklyn (Mỹ)… Phim được trình chiếu tại 15 nước, được dịch ra 5 thứ tiếng.

Phần nào nhờ bộ phim mà cha mình bấy giờ mới hết “sợ” cộng sản, chịu quay về thăm quê nhà (quê gốc Phan Thiết), bà con bạn bè cũ.

Sau thành công của “Oh Saigon”, tiếp tục khai triển mạch phim này qua một bộ phim tài liệu khác nói về thân phận người phụ nữ VN sau chiến tranh chính là mẹ, dì, chị và cả bản thân mình: “Tôi không quên được chiến tranh vì tôi đã sống và chịu ảnh hưởng nó, tôi không thể quên được. Nếu không có chiến tranh thì tôi đâu phải là người Mỹ gốc Việt mà sẽ là người VN thôi.”

Cũng vì thế mà đặt tên hãng phim tư nhân nhỏ của mình là Hãng phim Nước – Nuoc Pictures với ý nghĩa “Nước” đây là “Đất Nước”, là “Nước VN”.

Còn tham gia hoạt động đóng góp từ thiện cho Quỹ Vietnam Relief Effort ở Mỹ.

1053 - Lê Hữu Mục
LÝ THUYẾT GIA CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ
Giáo sư đại học Việt kiều Canada sinh 1925 tại Ninh Bình. Sống ở Canada (2012).

Xuất thân từ nhà dòng nhưng chuyên tâm nghiên cứu Hán – Nôm trở thành một chuyên gia chữ Nôm tầm cỡ. Còn rất tài hoa chơi nhạc, viết nhạc từ sáng tác ca khúc trữ tình (nổi tiếng bài “Hẹn một ngày về” do Hà Thanh hát) lẫn loại âm nhạc giao hưởng bác học.

Dạy ĐH Học Huế và trong thời gian này đã được chế độ Ngô Đình Diệm sử dụng (cùng Bùi Xuân Bào, Võ Long Tê đều trí thức Công giáo) như lý thuyết gia với tham vọng lập thuyết chống chủ nghĩa cộng sản, đó là chủ nghĩa nhân vị phát triển từ triết thuyết cùng tên Personnalisme của triết gia Công giáo Pháp E. Mounier. Từ đó in 2 cuốn “Văn hóa và nhân vị” và “Thảm trạng của một nền dân chủ vô thần” đều 1958.

Tuy nhiên chủ thuyết đó sớm chết yểu theo chế độ nhà Ngô nên sau đó chuyển vào Sài Gòn dạy ĐH Sư phạm chỉ chuyên tâm nghiên cứu văn học Hán - Nôm. Khảo cứu và dịch thuật nhiều tác phẩm Hán – Nôm cổ điển như “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện u linh tập”, thơ Trần Thái Tôn (giải thưởng dịch thuật 1970), thơ Nguyễn Trãi…

Sau 1975 vẫn còn ở lại được tiếp tục dạy Hán – Nôm nhưng được thời gian ngắn đương nhiên xảy ra vấn đề bất đồng quan điểm cả trên phương diện học thuật thuần túy nên… vượt biên… bị bắt! Sau đó mới được bảo lãnh đi Canada.

Trên xứ người, tiếp tục được mời dạy Hán – Nôm ở đại học. Và in thêm sách nghiên cứu Hán – Nôm “Truyện Kiều và tuổi trẻ” năm 1998, “Tiếng nói Đoàn Thị Điểm trong Chinh phụ ngâm khúc” năm 2000… Lập Trung tâm Việt Nam học – Vietnamotologie, ra tạp chí Việt học Vietnamologica.

1054 - Lê Tất Điều
BỎ VĂN QUA THƠ
Nhà văn sinh 1942 tại Hà Đông. Sống ở Mỹ (2012).

Trước 1975 được tạp chí Bách Khoa giới thiệu ban đầu, dần trở thành một nhà văn có khuynh hướng xã hội hướng về giới lao động nghèo chịu nhiều bất công qua một số tập truyện ngắn và truyện dài như “Kẻ tình nguyện”, “Quay trong gió lốc”, “Đêm dài một đời”. Có một tập về đề tài thiếu nhi “Những giọt mực”.

Song song đó còn viết báo chuyên mục “phim” tức loại tiểu phẩm châm biếm cay độc các thói hư tật xấu ngoài đời được người đọc thích thú với bút danh khá nổi Kiều Phong (một nhân vật anh hùng của truyện chưởng Kim Dung).

Ngoài đời là sĩ quan VNCH nên tháng 4.1975 di tản qua Mỹ.

Năm 1980 có tham gia hoạt động trong Uy ban Cứu nạn vượt biên vận động tổ chức đưa tàu ra biển Đông vớt dân vượt biển VN.

Nhưng về sự nghiệp viết lách thì từ bỏ viết truyện với lý do “không còn hứng nữa” để chuyển qua… làm thơ, ra tập “Thơ Cao Tần” với bút danh này xuất hiện lần đầu năm 1978. Gọi là thơ chứ vẫn còn phảng phất phong vị châm biếm chua xót của Kiều Phong qua chủ đề tự trào về dân di tản VN bây giờ lưu vong thất chí sống nhạt nhòa hoang tưởng:

Ta Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau?

(trích)

“… dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
gánh sơn hà toan chất thử lên vai
chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai.
một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn
nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn
nay đất khách kéo đời rất nản
ta tính sẽ về vượt suối trèo non...
một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
thần tự do giờ đứng ở nơi nào ?
ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
tự đốt mình cho lửa sáng xem sao ...
bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
thấy chiến trường la liệt xác anh em
năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm.
sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
những hào hùng uất hận gối lên nhau
kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
ta làm gì cho hết nửa đời sau?”


Đây là nhà văn có 2 phong cách viết trái ngược nhau lạ lùng vừa viết cho tuổi thiếu nhi hồn hậu, trong sáng mà lại vừa có giọng thơ trào phúng sâu cay. Như Duyên Anh một tay đỡ đầu cho nhóm “Tuổi Ngọc” một thời còn một tay Thương Sinh nổi tiếng phóng bút đả kích trên mục biếm báo ngày Sài Gòn.

1055 - Ngọc Đức
VỞ KỊCH CUỐI ĐỜI
Diễn viên kịch nói sinh tại VN. Sống ở TPHCM (2012).

Trước 75 khá nổi tiếng là “kép đẹp” đóng kịch trên sân khấu Sài Gòn với đoàn Kim Cương. Lấy vợ ca sĩ Phương Hồng Ngọc sinh được 2 con.

Đến năm 1982 cùng vợ và 2 con qua Pháp theo diện đoàn tụ phía gia đình nhà vợ.

Tại Pháp vợ còn đi hát thường xuyên được còn mình khó sống nổi vì diễn kịch hải ngoại hiếm lắm.

Có lẽ vì vậy mà sinh mâu thuẫn gia đình đưa đến 4 năm sau vợ chồng ly dị. Vợ lấy chồng Việt kiều khác chuyển qua Mỹ ở luôn, còn mình quay về lại TPHCM.

Dù sao thì bây giờ cũng lập lại được cuộc sống gia đình tạm ổn, lấy vợ mới mở tiệm ăn đề huề. Vợ cũ cùng chồng mới về nước còn ghé lại thăm vui vẻ!

1056 - Nguyễn Hà Phan
ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ BỊ KHAI TRỪ
Nguyên cán bộ cộng sản cao cấp sinh 1933 tại Bến Tre. Sống ở Cần Thơ (2012).

Hoạt động cộng sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thời chống Pháp đến chống Mỹ.

Sau 1975 lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng gồm Bí thư tỉnh Hậu Giang (cũ), Phó Chủ tịch Quốc hội 1992, vào Bộ Chính trị làm Thường trực Ban Bí thư 1993.

Năm 1996 tại Đại hội Đảng bỗng nhiên bị tố tội “phản bội” vì trong kháng chiến chống Mỹ có hành vi “đầu hàng địch” khi bị bắt 1958 rồi được thả ra 1964 về Châu Đốc hành nghề bán nước mía. Vì vậy bị kỷ luật nặng nhất khai trừ Đảng về lại Cần Thơ làm dân thường dưỡng già.

Đây có thể là hậu quả của tham vọng cá nhân muốn “trèo cao” hơn nữa nên té nặng quá nặng!

1057 - Nguyễn Hữu Xương
LẬP ỦY BAN CỨU NẠN VƯỢT BIÊN
Giáo sư đại học Việt kiều Mỹ sinh 1933 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).

Từ miền Nam đi du học Pháp tốt nghiệp kỹ sư 1955, sau đó qua Mỹ học tiếp đậu bằng tiến sĩ ngành vật lý 1962 và ở lại California dạy đại học. Nổi tiếng là nhà phát minh ra phương pháp đo nhiễu xạ quang tuyến gọi là máy “Quang tuyến Xương”.

Năm 1980 trước thảm cảnh dân vượt biên VN trên biển bị chìm tàu mất mạng hoặc bị hải tặc Thái Lan cướp bóc sát hại, đã cũng một số Việt kiều cùng ý hướng (Phan Lạc Tiếp, Lê Tất Điều…) thành lập Uy ban Cứu nạn vượt biên VN kêu gọi cứu vớt, giúp đỡ người vượt biên và chống hải tặc Thái Lan. Năm 1985 phối hợp với Hội Y sĩ Thế giới của Pháp tổ chức đưa 5 chuyến tàu ra biển Đông vớt được 3.103 thuyền nhân VN. Vận động các nước nhận họ nhập cư, giúp họ làm thủ tục giấy tờ chiếu khán nhập cảnh. Đồng thời yêu cầu Liên Hợp Quốc, Thái Lan diệt nạn cướp biển…

Đến 1990 Uy ban kết thúc nhiệm vụ sau khi Mỹ và VN thỏa thuận các chương trình xuất cảng hợp pháp diện H.O (cho sĩ quan, công chức cao cấp chế độ cũ) và O.D.P (cho diện bảo lãnh người thân qua đoàn tụ gia đình).

Năm 2009 về VN theo lời mời của trường đại học mở lớp tập huấn chuyên ngành vật lý và phương pháp “Quang tuyến Xương” cho sinh viên VN.

1058 - Nguyễn Tú
BÀI BÁO CUỐI CÙNG
Nhà báo Việt kiều Mỹ sinh 1924 tại Hà Nội – Mất 2010 ở Mỹ (86 tuổi).

Trước 75 là phóng viên chiến trường chuyên viết phóng sự chiến trường trên nhật báo Chính Luận.

Trong những ngày cuối cùng tháng 4.1975 đã viết bài phóng sự “Ngày chủ nhật buồn” mô tả về cuộc di tản hỗn loạn của quân dân VNCH từ Pleiku về Tuy Hòa mở đầu cuộc sụp đổ của chế độ này gây ấn tượng xúc động mạnh cho mọi người.

Sau đó thì bộ đội cộng sản tiến vào Sài Gòn, báo đóng cửa.

Bản thân nhờ mối quan hệ rộng đã có thể dễ dàng lên máy bay di tản song do đã lỡ hứa với một số đông nghiệp, bạn bè sẽ giúp họ cùng đi nên phải nán lại lo chạy đường dây. Nhưng rốt cuộc trong cảnh rối bời giờ thứ 25… không giúp ai đi được cả nên mình cũng không đi: “Đi lúc anh em họ ở lại thì hèn quá.”

Đành ở lại đi cải tạo hơn 10 năm.

Sau khi được thả ra, năm 1988 ra Đồ Sơn (Hải Phòng) tìm đường vượt biên qua Hong Kong rồi được Mỹ tiếp nhận.

Nhưng trên đất Mỹ từ giã nghề báo luôn, hầu như không viết gì nữa vì “Bài “Chủ nhật buồn” vẫn là bài báo cuối cùng của tôi. Tất cả các bài khác nếu có chỉ là dạng “Út thêm” mà thôi”!

Đến khi qua đời vẫn cô đơn một bóng.

1059 - Nguyễn Võ Nghiêm Minh
LÀM PHIM TỪ KỶ NIỆM “TRỐN CHIẾN TRANH” THỦA NHỎ
Đạo diễn phim truyện Việt kiều Mỹ sinh tại Vũng Tàu. Sống ở Mỹ (2012).

Đó là kỷ niệm được hồi tưởng "...Tôi thường tìm cách trốn thoát cái chết chóc, đau khổ của chiến tranh bên ngoài bằng cách ráng đi vô coi phim. Vì ba tôi là quản lý rạp phim nên những người gác cửa rạp họ biết và để tôi vào xem không có gì khó khăn lắm. Xem phim, ngoài việc là phương tiện để tôi trốn thoát cái đau khổ của cuộc chiến tranh bên ngoài kia, nó còn là cửa sổ để tôi nhìn ra thế giới bên ngoài… Trong cái nhìn của một đứa trẻ tám, chín tuổi thì ấn tượng đó rất là sâu đậm…. Nhưng không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Âu châu, ngay cả ở Mỹ cũng vậy, sống bằng nghề làm phim không là chuyện vô cùng khó khăn nên tôi đành tạm gác cái đam mê của mình lại”.

Phải gác lại khi di tản qua Mỹ sau 1975 học tốt nghiệp tiến sĩ vật lý ra đi làm phòng thí nghiệm suốt 16 năm.

Rồi một ngày nọ “Tôi chợt nghĩ, một là mình làm phim bây giờ, hai là mình chắc phải lãng quên giấc mơ này. Và tôi phải quyết định, không hẳn là bỏ hẳn ngành vật lý của mình, nhưng tôi phải giảm bớt vai trò của công việc vật lý để bắt đầu đi học làm phim”.

Năm 1998 học xong nghề làm phim rồi mới bắt đầu viết kịch bản phim “Mùa len trâu”…” phỏng theo một truyện ngắn của Sơn Nam trong tập “Hương rừng Cà Mau”. Sau đó về nước bắt tay vào làm đạo diễn bộ phim truyện nhựa đầu tay này hoàn thành năm 2004 đoạt giải Liên hoan Phim VN và đưa ra nước ngoài giành 8 giải liên hoan phim quốc tế.

Năm 2009 làm tiếp bộ phim tình cảm lãng mạn “Khi người yêu đừng quay đầu lại” thuộc dòng phim giải trí khác hẳn phim nghệ thuật “Mùa len trâu” nên không thành công bằng.

Có lẽ phải chờ bộ phim sẽ làm trở lại với dòng phim nghệ thuật “có thể là về đề tài chiến tranh”.

1060 - Phạm Hoàng Hộ
TƯỞNG NIỆM MỘT “THỜI ẢO VỌNG”
Nhà khoa học, giáo sư đại học Việt kiều Canada sinh 1931 tại Cần Thơ. Sống ở Canada (2012).

Tốt nghiệp tiến sĩ ngành thực vật học ở nước ngoài trở về Sài Gòn dạy đại học, làm khoa trưởng ĐH Sư phạm Sài Gòn, sáng lập viên ĐH Cần Thơ. Từng nhậm chức Tổng trưởng Giáo dục một thời gian ngắn rồi thôi khi nhận ra mình chỉ thích hợp với công tác chuyên môn chứ chính trị chả biết gì!

Từ đó tập trung đi sâu nghiên cứu các loại thực vật VN, trở thành nhà thực vật học hàng đầu trong nước. Một số thành tựu của các công trình đó được in trong một số sách trong đó quan trọng nhất là cuốn “Cây cỏ miền Nam”.

Là nhà khoa học có tư tưởng tiến bộ nên sau 30.4.1975 vẫn ở lại, tin rằng mình là nhà khoa học thuần túy nên sẽ không bị làm “khó dễ”. Thực tế đã được chế độ mới trọng dụng tạo điều kiện cho ra miền Bắc nghiên cứu các loại cây cỏ giúp bổ sung thêm khoảng 2.500 giống nữa vào danh sách cây cỏ miền Nam.

Nhưng vài năm sau qua làm việc chung thấy khó thể hòa đồng với chế độ mới, gặp nhiều bất đồng kể cả về quan điểm khoa học, khó thể ở lại tiếp tục làm việc có hiệu quả như mong muốn. Vì thế có nguyện vọng qua Pháp nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai các công trình khoa học cấp cao hơn về công trình quy mô “lịch sử dư địa chí thực vật VN”. Nhờ sự ủng hộ của Bí thư Thành ủy TPHCM lúc đó là ông Võ Văn Kiệt nên được chấp thuận (bản thân ông VV Kiệt nhân chuyến đi thăm Pháp 1984 đã có tìm đến thăm “cố nhân”).
Ở Pháp một thời gian rồi chuyển qua Canada. Tại đây trên cơ sở cuốn “Cây cỏ miền Nam” trước đây và phần bổ sung sau này đã bắt tay vào hoàn thành công trình lớn đầy đủ đó đặt tên xứng danh “Cây cỏ VN” với khoảng 12.000 loại gồm 6 tập tổng cộng 3.599 trang (không kể phần phụ lục) xuất bản năm 1991 – 93 (Nxb Trẻ in lại năm 2010 ở TPHCM).

Đặc biệt công trình được trang trọng đề tặng “những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng 4.75, vì đã quyết định ở lại để tiếp tục đóng góp cho đất nước… Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào.” Trong số đó có nêu danh người bạn thân TS Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Viện ĐH Cần Thơ đã bị bắt đi cải tạo rồi chết trong trại Hà Nam Ninh năm 1986.

Những lời đề tặng cũng là một cách “tự kiểm” một “thời ảo vọng” của chính mình đã qua rồi!

Năm 2006 còn in thêm cuốn “Cây cỏ có vị thuốc ở VN”.

(Còn tiếp)