Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

SAO KHUYA - VÕ CHÂN CỬU

1
Đâu ai còn nhớ thương ai
Câu ca ngày ấy thương hoài ngàn năm
Sao khuya lấm áo em nằm
Cho ta tìm ánh trăng rằm trên cao.
2
Lối xưa anh biết chốn nào
Cành dương xỉ vẫy tay chào hư không
Con bìm bịp cứ bay cong
Suối ơi uốn khúc ngô đồng gió lay.
3
Chiều vừa chín giữa ngọn cây
Người không đến, nửa bóng mây qua thềm
Cho nhau một giọt mưa tìm
Bờ môi em. Vẫn cánh chim lưng trời
4
Ai tìm bắt  bóng mây vơi
Cửa răng gió lạnh những lời nhớ, quên
Ai tìm ai giữa vô biên
Bàn tay nắm bóng. Chiều nghiêng xuống rồi.

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

TRẢ LẠI VỊ TRÍ XỨNG ĐÁNG CHO NHỮNG TÁC PHẨM GIÁ TRỊ - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Tính từ khi tiểu luận Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ và bài thơ Tình già của Phan Khôi được công bố trên Tập văn mùa xuân, phụ san của Báo Đông Tây Xuân Nhâm Thâm 1932, và trên báo Phụ Nữ tân văn ngày 10-3-1932, phong trào Thơ Mới ra đời đến nay đã tròn 80 năm. Tính từ khi Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm giám đốc tuần báo Phong Hóa vào ngày 22-9-1932, chuẩn bị cho sự ra đời của Tự Lực văn đoàn sau đó[*], 80 năm cũng đã trôi qua. Nhân dịp này, một số cơ quan nghiên cứu và giảng dạy văn học trân trọng kỷ niệm hai sự kiện văn học lớn, có ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình hiện đại hóa văn học nước ta. Là sản phẩm của lịch sử và văn hóa Việt Nam, chịu ảnh hưởng bởi những biến động chính trị, xã hội, kinh tế trong tám thập niên vừa qua, hai hiện tượng văn học nói trên đã trải qua những chặng đường gập ghềnh trong sự tiếp nhận, thưởng thức và đánh giá. Trong những hoàn cảnh cực đoan, có lúc Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn đã bị xem là những hiện tượng văn học suy đồi, tiêu cực, thậm chí có hại cho việc giáo dục đạo đức và thẩm mỹ. Đường lối Đổi mới xã hội và văn hóa, văn học khởi xướng từ năm 1986 đã góp phần cứu vớt số phận của hai trào lưu văn học này, “chiêu tuyết” cho nó và từng bước đưa nó trở lại với đời sống. Những thi phẩm công bố trước 1945 của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Huy Thông, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Bích Khê, Hồ Dzếnh, Đoàn Phú Tứ, Nam Trân, Phạm Hầu, Xuân Tâm, Đinh Hùng… lần lượt được in lại với số lượng lớn. Truyện ngắn, tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Trần Tiêu… cũng được tái bản và phát hành rộng rãi, chứ không phải là tài liệu hạn chế trong thư viện chỉ dành cho một số ít nhà nghiên cứu tiếp xúc mà thôi. Một số bài thơ hay của văn học lãng mạn được đưa vào các tuyển tập, được bình giảng trong sách giáo khoa trung học, được chọn làm đề thi tú tài và đại học. Hầu hết các nhà thơ, nhà văn nói trên cùng tác phẩm của họ được khảo sát trong các tiểu luận, luận văn, luận án ở nhà trường đại học. Có thể nói một trong những thành tựu lớn nhất của khoa nghiên cứu, phê bình văn học thời kỳ Đổi mới là việc phân tích, nhận thức lại những hiện tượng văn học quá khứ đã từng bị đánh giá bất công, từ đó đi đến nhận định khách quan và xác lập cho nó vị trí xứng đáng trong văn học sử. Những nhận xét thỏa đáng về các hiện tượng văn học ấy của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan trước 1945 và của những nhà nghiên cứu ở miền Nam trước 1975 như Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Đặng Tiến, Lê Huy Oanh, Bùi Đức Tịnh… được thừa nhận. Một số nhà nghiên cứu từng nặng lời với Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn trước đây cũng thay đổi cách nhìn. Đặc biệt, từ cuối những năm 80 thế kỷ trước đến nay, nhiều công trình cá nhân và tập thể đã được biên soạn trong tinh thần khoa học, giúp người đọc cảm và hiểu sâu hơn những tác gia, tác phẩm của một giai đoạn văn học phát triển mạnh mẽ vào những năm 1932-1945. Có thể kể ở đây một số cuốn sách tiêu biểu: Thơ Mới – những bước thăng trầm của Lê Đình Kỵ, Mắt thơ của Đỗ Lai Thúy, Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa… của Vương Trí Nhàn, Về Tự Lực văn đoàn của Nguyễn Trác và Đái Xuân Ninh, Tự Lực văn đoàn – con người và văn chương của Phan Cự Đệ, Tự Lực văn đoàn – trào lưu và tác giả của Hà Minh Đức, Ba đỉnh cao Thơ Mới của Chu Văn Sơn, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca do Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên… Trong các nhà nghiên cứu về Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn, chúng tôi muốn nhắc đến hai tác giả với sự trân trọng về lao động công phu, kiên trì và hiệu quả. Đó là Hà Minh Đức, giáo sư đầu ngành văn học, với một loạt công trình biên khảo, sưu tầm, ghi chép về các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Anh Thơ trong bộ sách được lần lượt xuất bản khoảng năm năm gần đây. Thuộc thế hệ trẻ hơn, Vu Gia chuyên tâm nghiên cứu về những tác gia thành viên của Tự Lực văn đoàn: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Tú Mỡ, Thế Lữ. Bộ sách của ông cuốn nào cũng dày từ ba trăm trang đến gần một ngàn trang, đầy ắp tư liệu mới làm cơ sở cho những nhận định bổ sung vào những khoảng trống văn học sử. Những công trình nghiên cứu đa dạng và đa diện về phong trào Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn cho thấy đây là những hiện tượng “một đi không trở lại” trong lịch sử văn học dân tộc, có giá trị đích thực và sức sống dài lâu, còn có thể được tiếp tục khám phá. Bằng chứng là dưới ánh sáng của thi pháp học, phong cách học, lý thuyết tiếp nhận, văn bản Thơ Mới và văn xuôi Tự Lực văn đoàn bộc lộ vẻ đẹp và sự phong phú của nó, đồng thời cho thấy tiếng vang của nó còn ngân xa trong lòng các thế hệ văn thi sĩ và độc giả đến sau. Tất nhiên, mọi hiện tượng văn học đều có những giới hạn lịch sử của nó. Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn cũng không là ngoại lệ. Kỷ niệm hai sự kiện văn học này không phải là dịp để chúng ta tôn vinh những khuôn mẫu không hề bị vượt qua mà quan trọng hơn là rút ra những bài học cho những cách tân hôm nay. Thời đại mới, con người mới luôn luôn cần những tiếng nói nghệ thuật mới. Trân quý những tiếng nói nghệ thuật cũ không có nghĩa là mãi mãi nằm trong bóng râm và vùng từ trường của nó. Trên thực tế, văn học ở những địa bàn khác nhau của đất nước, từ cuối những năm 50 thế kỷ trước đến nay, đã có những bứt phá và đột phá mà có lẽ lúc đương thời những Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu…, dù đầy tài năng, cũng chưa thể hình dung được.  

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG 
 [*] Nguyễn Tường Tam chính thức được ghi tên Directeur (Giám đốc) trên trang bìa báo Phong hóa số 14, ra ngày 22-9-1932. Đến số 87, ra ngày 02-3-1934, Phong hóa mới công bố Tôn chỉ của Tự Lực văn đoàn.

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

HẠT LỆ NÀO CŨNG MẶN NHƯ NHAU - HOÀNG LỘC

cũng bởi chiều nay mây xuống thấp 
chi chắc ngày mai em vui hơn tôi 
cuối sông mờ cơn gió tạt 
vừa nghe ra mưa nổi thượng nguồn 

ở đó có thời em rất lạ 
lá trên vai và nắng trên môi
 những ngày thu của rừng núi cũ 
của thú gầy em hẹn với tôi

 ở đó, rồi xa nhau, cũng vội
 (đời tôi em đã bỏ không về)
 nhiều khi tôi nhớ tôi, buồn bã 
đi bao năm mà lòng vẫn quê 

nhiều khi tôi nhớ em nhiều lắm
 tình sau chẳng mấy khác tình đầu
 trời nỡ sinh hai người lận đận
 hạt lệ nào cũng mặn như nhau
 9-2012

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

TIN BUỒN

ĐƯỢC TIN
NHÀ THƠ NHÀ BÁO HÀ THÚC QUYẾT 
VỪA QUA ĐỜI TẠI HUẾ
HƯỞNG THỌ 68 TUỔI
XIN CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN 
CẦU NGUYỆN HƯƠNG HỒN BẠN SỚM VỀ CÕI PHẬT 

 viêm tịnh - nguyễn miên thảo - cao huy khanh - từ hoài tấn - phạm tấn hầu
 thái nguyên hạnh - tân dân - nguyễn đính - nguyên quân - hồ đăng thanh ngọc
lê ngọc thuận -  đoàn phạm túy linh - nguyễn phố - văn viết lộc 
phan lệ dung - bùi ngọc long - doanh doanh - lê vĩnh thái và bằng hữu

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

HA NA KIM - LÊ NGỌC THUẬN

HA NA KIM
Bên kia bờ biển rộng
Em có chờ ta không?
Ta rót ngàn ly rượu
Uống ngậm ngùi thủy chung
Chưa biết trời Vinh Giang
Đã nghe mùa nắng ấm
Đôi mắt Kim lặng câm
Theo sóng vỗ thì thầm
Thà làm tên say rượu
Để suốt đời nhớ em
Ta đâu cần giấc mộng
Mặc hiên ngoài mưa rơi
Hãy cho ta uống cạn
Dù cốc đầy hay vơi
Dù tóc vừa chớm bạc
Những sợi buồn cưu mang
Có ngàn ngày chủ nhật
Để đợi chờ mai sau
Ta cũng có hai vai
Mời em về yên nghỉ

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2012

THÊM BÀI THƠ - VÕ CHÂN CỬU

Chắc ta phải rời xa nơi ấy
Rừng thưa chồi gió lặng cô liêu
Vôi quyện muối theo hình con vắt búng
Nắng hong vai chầm chậm sương chiều

Em cứ ngỡ lòng em như cánh lá
Phất theo mưa nhưng chẳng thể xa cành
Con tu hú suốt một đời khản cổ
Chữ theo vần chưa thấy bóng trăng thanh

Thôi chẳng thể một lần như chẳng thể
Tay dầm sương nhỏ nhẹ như mây
Thôi chẳng thể thêm một bài thơ ấy
Gió chao xa thu ngắt nhịp vơi đầy.

Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2012

QUÁN TÂM - LÊ NGỌC THUẬN

QUÁN TÂM

Cô bé có khuôn mặt buồn quá tải
Nỗi nhọc nhằn hiện rõ trên bàn tay
Cô bé cười ta thấy vài giọt lệ
Nơi bập bùng theo tiếng nhạc rền vang

Ta trong số kẻ lăng loàn mất nết
Rượu say rồi trôi nổi với thị phi
Chút trong sáng cũng tan thành trăm mảnh
Buồn loanh quanh không biết sáng hay chiều

Vui có lẽ cũng mấy phần không thật
Đạo cũng vài phân xảo trá điêu ngoa
Đôi lúc nghĩ mình như con lợn chết
Nhưng lại cười ha hả giữa trần gian

Suy cho cùng thân xác này nửa quỷ
Tham sân si tóa lọa đầu đến chân
Mưa đâu đó trên tóc dài thiếu phụ
Ứơt u mê nỗi nhớ đã ê chề

Tâm có thật hay chỉ là hư huyễn
Tình trăm năm hay một chút chao lòng
Ta kiểm tra thấy mật gan tím ngắt
Ngồi nghêu ngao đâu ma quỷ - thánh thần

Cô bé đã quen rồi son phấn
Cũng như ta chai sạn với phong trần
Thèm chén rượu mơ hồ đừng phân cách
Không chân trời - không không và không không.


Thứ Năm, 13 tháng 9, 2012

KHI TÔI LỠ DẠI - HOÀNG LỘC

khi tôi lỡ dại yêu người
quanh tôi có một mình tôi đứng buồn
trên tôi chỉ một trời tròn
dưới tôi là trái đất vuông thuở nào ?

yêu người đời hóa chiêm bao
tiếng than quặn thắt câu chào hiếm hoi
trái tim sinh chẳng gặp thời
cứ thoi thóp cả đất trời tư riêng

tôi từng lỡ dại và em
thân đau thất bát hồn thêm lỗi nghì
tình về không kịp tình đi
cho nên suốt kiếp xa lìa. cũng xong

9-12

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

VỀ NÚI - VÔ BIÊN

Chỉ còn núi và tôi và cây cỏ
Biển thì xa nhưng tay vẫy thật gần
Đá tĩnh lặng đứng trơ mềm gió lướt
Mây đổ buồn len lỏi giữa chiều hoang

Còn ai nữa về cùng tôi với núi
Nói với bao la dâu bể dưới chân người
Hát với chim muông thanh bình trên tầng lá
Nghe nhịp lòng sâu chuyển mạch luân hồi

Núi tiếp núi nhấp nhô cao thấp
Tôi mệt nhoài trượt ngã đỉnh cheo leo
Mây vẫn bay mong manh triền đá dựng
Ngày dần qua xa vắng khuất truông đèo

Còn ai nữa ngồi cùng tôi với núi
Chiều buồn ơi mưa rớt xuống mênh mông
Áo chưa ướt mà rừng hơi thở lạnh
Có ngọn lửa từ tim sưởi ấm đồi đông.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012

TỪ NÚI RỪNG LỤC TUYẾT - NGUYỄN MIÊN THẢO

1.
Dẫu thế nào đi nữa
Ngày mai ta cũng về
Thôi rừng xanh ở lại
Với mắt sầu sơn khê

Đây hầm xưa núi đá
Noi dấu yêu ngàn đời
Dẫu ngày mai xa cách
Đừng buồn chi núi ơi

Đây núi rừng Lục Tuyết
Nơi hẹn hò ngàn năm
Dẫu ngày mai ly biệt
Ta nhớ hoài vạn năm

Đây ngôi trường lá mộng
Gió bốn bề hương đưa
Lũ học trò ngu độn
Khố ấm,hồn tiêu sơ
(Các em là tiền sử
của loài người hôm nay)
Dẫu mai kia ở lại
Các em đừng lệ rơi
Hãy nhìn dòng suối đó
Cuộc đời cũng thế thôi

Đây căn nhà gỗ quý
Lá mây che mưa nguồn
Một đời ta khốn khó
Về đây làm trích tiên

Đời một vạn gian nan
Biết làm gì thêm mệt
Ta trốn vào rừng thẳm
Dạy các em làm người
Một điều ta nhắc nhở
Đừng tin gì hom nay

Dẫu mai này vắng bóng
Nhà trống với rừng hoang
Nhớ những đêm mưa đổ
Mà nằm ru trăng vàng

Hãy hân hoan như biển
Dù ngàn đời hoang vu
Hãy xanh tươi như lá
Hãy dịu dàng như sương
Hãy bền lâu như đá
Dù hợp tan như mây
Có ngày ta trở lại
Thăm rừng hoang rừng hoang

2.
Đây những hạt mưa nguồn
Ta gừi tình xuống biển
Nhắn người yêu dáu ta
Chơ có thành tượng đá
Ngày mai ta sẽ về
Môi xưa rồi sẽ đỏ
Nhắn với bạn bè ta
Đừng lo ta chết yểu
Nhắn với cha mẹ ta
Hãy tin ta còn sống
Nhắn với anh em ta
Ta có lời xin lỗi
Ngày mai ta sẽ về …

Ở đây rất bình yên
Bom đạn không thể tới
Ta ăn toàn thú rừng
Gạo đổi từ miệt dưới
Có rất nhiều mật ong
Thứ mật ong nguyên chất
Ta có cái ống điếu
Đẹp hơn đồ văn minh

3.
Đây những hạt sương trong
Sáng mặt trời dậy muộn
Ta nằm nghe mưa hồng
Đổ từ trời ảo mộng
Mà nhớ tói lời ca
Của một thằng bạn thiết
Giọng buồn như lá non
Và hay như lục tuyết
Chảy hoài từ núi xa

4.
Đây rừng cây khẳng khiu
Đứng ngàn năm ở đó
Mà nhớ tới bạn bè
Thằng nằm ôm sương khói
Kéo cuộc đời lê thê
Thằng nàm ôm ảo vọng
Chết dần thời thanh xuan
Thằng lận dận áo cơm
Thằng đua đòi chữ nghĩa
Thằng ở tù mục xương
Thằng rong chơi tren núi
Còn ta đang nằm đây
Ngó rừng cây trụi lá
Mà mắt buồn rưng rưng

5.
Những đêm trời đứng gió
Rừng cây im như tờ
Ta nghe mình lạc lỏng
Hồn quạnh quẻ, hoang sơ

Rừng già ơi có chết
Ta chết với rừng già
Cây rừng sao trụi lá
Ta chạnh mối hư sinh
Mà nghe chừng bão tới
Trong hồn ta lênh đênh
Một cánh buồm trôi dạt
Biển rừng ơi mong mênh
Những lá vàng bức tử
Ta thấy mình hồi sinh

Bạn bè chừ ở đó
Bây giờ ta ở đây
Những đêm ngắm trăng vàng
Mà nhớ về cố quận …

NGUYỄN MIÊN THẢO
(Tuần báo Khởi Hành 1969)

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

RƯỢU VÀ ĐAO - LÊ NGỌC THUẬN


Đao của người có bóng ni cô
Rượu của ta có đôi mắt khế
Sợ gì nhau, mà không cạn chén
Trước hay sau cát bụi vẫn về

Từ lâu rồi chưa hôn ai cả
Thấy môi mình như múi chanh khô
Giày dép đã tàn da mạt đế
Tình lang thang lê lết u mê

Trưa cát hạ bừng bừng trong quán
Chuyện giang hồ, hiểm ác yêu ma
Ta với rượu hoà chung một điệu
Nhịp chầu văn, cô lên, cậu lên

Những giọt sương âm thầm trắng buốt
Rơi lạnh lùng quanh gốc khế xưa
Ta ngỡ ta đang nơi chốn cũ
Mời vương phi một ly mây trời

Đao của người không còn nhanh nữa
Rượu của ta vẫn cứ đậm đà
Bởi tóc em dài bay đâu đó
Có sợi nào rụng cho ta say.

Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012

THÁNG 10.2012,ĐÓN ĐỌC THI PHẨM MỚI CỦA TỪ HOÀI TẤN

Mời bạn đọc và thân hữu đón đọc tập thơ xuất bản vào tháng 10.2012
THƠ TỪ HOÀI TẤN
ĐI, ĐỨNG VÀ CHẠY ...VỚI THỜI GIAN

BÌA , PHỤ BẢN LÊ THÁNH THƯ
NXB Hội Nhà Văn

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2012

MÙA XUÂN VÀ THẠCH SANH - TRIỆU TỪ TRUYỀN

em sinh từ bán đảo
trôi một mình vào biển đời
sóng gió ướt đầm
đảo xa khơi
căng buồm chưa tới được em
thả cánh diều xa dò tìm
em uất ức giữa ngàn trùng quặn thắt
chết ngất trong vòng tay hải tặc.
mùa xuân đánh thức
Thạch Sanh còn ngủ say
từ rừng thiêng bán đảo
Thạch Sanh vùng dậy tìm em
gọi tên yêu dấu:
Hoàng Sa!

(Vào xuân 2012, Triệu Từ Truyền)

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

NẾU MỘT MAI - PHAN LỆ DUNG

Buổi chiều
rơi trên áo anh
vẽ chùm hoa màu tím
rơi trên cuộc tình tôi
dịu êm.

Cám ơn buổi chiều
đã cho tôi khoảnh khắc dấu yêu
như những bông bưởi trắng
nồng nàn dưới mưa
niềm yêu thương giấu vào kẻ lá
dẫu khát khao gió đã mang đi.

Cám ơn buổi chiều
đãcho tôi nổi nhớ
tôi bâng khuâng
chạy tìm chiếc lá
có mùa thu nào rớt lại bên sông.

Nếu một mai đông đến muộn
đêm ngủ say
phố quen vắng ai trên đường

tôi vẫn nhớ
buổi chiều
gió lay cành bưởi
và trời mưa tháng mười

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU VIÊN TỊCH

Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã viên tịch vào sáng nay 1-9, tại TP.HCM.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu sinh năm 1920 tại Quảng Nam. Năm 1946, Hoà thượng xuất gia với ngài Trưởng lão Hoà thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, cố đô Huế.

Từ năm 1952 đến năm 1961, Hoà thượng du học và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Phật học với đề tài "So sánh tạng Pali Trung Bộ kinh với tạng Hán A Hàm” tại Đại học Phật giáo Nalanda, Ấn Độ.

Sau những năm tháng du học, Hoà thượng trở lại quê nhà và giữ chức vụ Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, chuyên lo sự nghiệp giáo dục và phiên dịch Kinh tạng Pali, hầu đóng góp tích cực vào công cuộc đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu, đương kim Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN, bậc cao tăng thạc đức của Phật giáo Việt Nam, là một trong những vị giáo phẩm đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục của Giáo hội, sáng lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Học viện Phật giáo Việt Nam. Suốt quá trình tu tập, Hòa thượng đã dành nhiều thời gian biên soạn, dịch thuật hàng trăm tác phẩm có giá trị học thuật cao, làm tài liệu học tập, nghiên cứu của nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.

Công trình dịch thuật Kinh tạng Nikaya của Trưởng lão Hoà thượng là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nhiều ý kiến tôn vinh ngài là một trong những nhà giáo dục lỗi lạc của Phật giáo nước nhà ở thế kỷ XX.

Trưởng lão Hoà thượng là ngôi sao sáng trong các hội nghị quốc tế mà ngài tham dự; ngài đồng thời là đại biểu xuất sắc của Phật giáo Việt Nam trên các diễn đàn về truyền bá Chánh pháp của Đức Thế Tôn, về con đường kiến tạo nền hoà bình cho nhân loại theo giáo lý Phật đà. Nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử đã thọ ân giáo dưỡng trực tiếp cũng như gián tiếp qua các công trình dịch thuật, trước tác của Trưởng lão Hoà thượng.

Theo nguồn tin của Giác Ngộ Online, Trung ương Giáo hội và môn đồ pháp quyến đang chuẩn bị các phiên họp về lễ tang của Trưởng lão Hòa thượng. Được biết, lễ cung thỉnh nhục thân Trưởng lão Hoà thượng nhập kim quan sẽ được cử hành vào sáng 2-9-2012. Kim quan của ngài sẽ tôn trí tại thiền viện Vạn Hạnh, sau đó, dự kiến vào ngày 8-9-2012 sẽ nhập bảo tháp, cũng trong khuôn viên thiền viện tại địa chỉ 750 đường Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận, TP.HCM.

GN.O

Được đăng bởi nguyenmienthao vào lúc 06:44:00 Không có nhận xét nào:

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

ÔNG CHỬI,TUI CŨNG CHỬI - LÊ NGỌC THUẬN

ÔNG CHỬI-TUI CŨNG CHỬI

Đồ xà lách trộn
Đồ gà nướng - đồ thịt băm
Đồ mèo hầm - chó hon - cá hấp
Đồ râu dê - mõm lợn
Chửi cho cùng vẫn thua ông một bậc
Mà mùa đông lại ập tới sau lưng
Tui đành phải lui về cố quận
Để phố phường cho những tay máu mặt
Để sông Hương cho dị sĩ - kì nhân
Tui xay bột đổ bèo
Khua cái muỗng cứ như là báu kiếm
Và tưởng mình là hiệp khách ẩn cư
Rồi gõ thau mà hát
Chí lớn gội xà phòng
Chí mén chơi bồ kết
Tập nói tập ăn tập trả tiền
Tập lễ nghi biết quỳ biết lạy
Biết cửa trước cửa sau
Biết ngày sinh tháng đẻ
Ông chửi tới nguyệt kinh phụ nữ
Chửi tới mười tám đời gã nọ bà kia
Tui thì quê mùa chân chất
Nên chửi như đất cày
Như những giọt mồ hôi trên trán nông phu
Như những giọt nước mắt
Những em bé lang thang cùng cực
Tui chửi như kẻ bán nhôm nhựa
Như những người tìm tương lai trong thùng rác đồ thừa
Tui chửi ngọng nghịu
Như những mảnh đời chất độc da cam
Chửi cà lăm cà cặp
Kệ cha những biệt thự phù hoa
Kệ mẹ những chiếc xe bạc tỉ
Kệ bà nội những đất đai bốn con số chín
Chửi người chán tui chửi tui
Đồ bất tài vô tướng
Đồ thiếu bạc hụt tiền
Đồ quàng xiên nói bậy
Chửi quá đâm ra thành ngộ đạo
Có có - không không
Bụi bụi - cát cát
Từ mẫu giáo đến đại học
Không một nơi nào mở dạy môn chửi
Nên ước mơ làm thầy của tui
Đành phải hòa trong Pháp Phật
Nam mô A Di Đà.

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012

NGÀY TÔI BỎ EM MÀ ĐI - NGUYỄN MIÊN THẢO

Ngày tôi bỏ em mà đi
Có thể trời không mưa
Và câu thơ ráo hoảnh
Có gì khác đâu em
Như một buổi sáng mùa thu lạnh giá
Ở sân ga
Như anh cầm tay em một buổi chiều quạnh quẽ
Ly cà phê sóng sánh nỗi buồn
Như tiếng thở dài
Em cô độc giữa đêm thâu

Ngày tôi bỏ em mà đi
Cỏ vẫn xanh
Sương vẫn mềm như lụa
Và em sẽ khóc
Mà tôi thì chỉ muốn mang theo một nụ cười
Tiếng cười trong veo
Đã từng làm tôi say đắm

Ngày tôi bỏ em mà đi
Thời gian vẫn không ngừng nhịp bước
Vô tình hơn cả nỗi buồn
Và chắc chắn em có một phút giây hiu quạnh
Sẽ có đôi lần em đến thăm tôi
Tình tự những điều chưa kịp nói
Rồi mọi điều sẽ rơi vào quên lãng

Ngày tôi bỏ em mà đi
Lặng lẽ như khi tôi đến trên cõi đời này
Bạn bè tôi đến uống chén rượu tiễn đưa
Buồn vui chốc lát
Và một nơi nào đó
Em ngồi một mình vô cùng lặng lẽ

Ngày tôi bỏ em mà đi
Em tưởng chết đi được
Nhưng rồi vẫn phải buồn vui, vẫn đi đứng, vẫn nói cười, vẫn hẹn hò bè bạn
Có thể phút giây nào đó
Em vẫn nghĩ về tôi như một hoài niệm rồi thôi
Thế cũng đủ rồi
Cám ơn em, cuộc đời không thể khác

Chỉ có một ngày em bỏ tôi mà đi
Tôi không còn tôi nữa
Em ơi

(Bệnh viện Trung ương Huế )