Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 15 ) - VÕ CHÂN CỬU

Gỗ và Đá
Dưới lòng suối những rễ cây vô tình ngoạm đá. Dâu biển tang thương, phá xong những cánh rừng, người ta moi đến gốc. Những rễ cây ôm đá qua các nhà sinh vật cảnh đã thành các món hàng vô giá.
Dòng chảy 21 năm VHMN có thể sẽ được đào xới lên theo nhiều kiểu cách. Một nhà khoa học sinh học chăm bẳm vào các đề tài nghiên cứu, khi nhìn thấy các món sinh vật cảnh này quả quyết qua tháng năm, nó tích tụ nhiều chất phóng xạ. Có loại đem chưng trong nhà sẽ rất độc hại. Cách nhìn duy vật thô sơ vẫn xem gỗ và đá là những loài vô cơ. Cách nhìn mới cho rằng trong đó sự sống vẫn dịch chuyển. Có khi nó chứa đựng cả phần hồn ! Thật vậy chăng ?

Linh cảm
Trong lĩnh vực văn chương, có người vẫn tin hoặc muốn tạo ra những tác phẩm “phi thời gian”. Điều ấy rõ ràng là không thể, nhưng vẫn có nhiều ngụy biện. Dù bắt nguồn từ khuynh hướng hay trường phái nào, tác phẩm văn chương, nhất là thơ ca cũng phải từ cảm xúc của con người. “Khi cảm xúc bị tác động thì trong lòng phát ra lời với âm hưởng và tiết tấu. Đó được gọi là Thơ. Như vậy, Thơ dùng biểu lộ tình cảm và tư tưởng con người”. Định nghĩa mang tính nhập môn ấy hình như được công nhận trên toàn thế giới. Nhưng có một ngày những người cầm quyền lại phủ nhận, bắt thơ phải phục vụ cho điều này, điều nọ…Từ đó cho rằng những vần thơ không xuất phát từ cảm xúc hiện thực không phải là thơ. Họ quên mất khả năng “linh cảm” của thơ…
Trước và sau biến cố 1975, các nhà thơ Miền Nam cảm nhận ra sao ? Đâu phải ai cũng phải miêu tả bằng những tiếng súng đạn, sự rên rỉ…Trong khi tôi cảm nhận với những “Tiếng chà xát của mây trong khí / Gió sang mùa mộng mị sang canh”… thì ở Bình Thuận, Lê Nguyên Ngữ, một thi sĩ mặc áo lính nghe được những cơn “gió bấc” vào cuối 1974 :

TRỞ BẤC
Có phải bấc đã xoay chiều
Vào những cửa nhà không cánh của quê ta ?
Gió thổi sắt se trên cánh đồng như lùng tìm mùa lúa mới
Hương cốm cũ theo về phảng phất
Trên bàn thờ khói lạnh hương tàn
Con cháu nào đã bỏ tổ tiên
Xa chạy cao bay

Có phải gió bấc đang nôn nao nỗi khát thèm
Viền đường bay áo mới
Ngọn cỏ vàng đong đưa vô tình
Rung nỗi bơ vơ lên khung trời xám nhạt bao la
Dưới cầu ao xưa
Lũ bèo cũng đang khát thèm
Âm khua rỗ rá

Có phải gió bấc bây giờ
Đang ruổi rong bằng vó ngựa bất kham
Và rượt đuổi mùa đông
Khắp ngõ hẻm hang cùng
Ôi quê ta, quê ta
Kỷ niệm nào đang run trong mùa đông rét ngọt
Bên hàng cây ngọn rẫy rất vô tình

Cơn bấc nào đã lì lợm tìm về
Trên quê ta, quê ta
Bằng đôi cánh tuyệt vời
Đang trùm khắp mùa đông binh lửa
Bằng ngõ đến tuyệt vời
Bấc làm người lạ mặt giữa quê ta
(Tạp chí Thời Tập)

Trong những năm cuối của cuộc chiến tranh tệ hại, có khá nhiều bài thơ được phổ nhạc. Có những bản đưa bài thơ được phổ nhạc trở nên nổi tiếng. Từ đó lại có những tranh cãi rằng “Thơ có trước hay Nhạc có trước ” –mà quên mất rằng “ngôn ngữ thơ” luôn “đượm tính âm nhạc”. Hóa giải cho sự tranh cãi này, có thể là các ví von của dân gian : “Thơ với nhạc như hoa với bướm”. Hoặc cách đổ thừa cho rằng mỗi tác phẩm nghệ thuật ra đời đều có số phận riêng của nó, có thể được nhiều người thích hoặc không thích ! Ngay cả với Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ luôn có lời nhạc đượm chất thơ, cũng có những bản nhạc không được cho là hay; nhưng nếu đọc lời, bài thơ lại rất ý vị ((Bài hát cùng tựa đề) :
KHÓI TRỜI MÊNH MÔNG
Ta về nơi đây phố xưa dấu đạn
Con đường bên sông cỏ lá buồn tênh
Ta về nơi đây tháng năm quá rộng
Ðường xưa em lại thấp thoáng bàn chân

Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh
Hết mùa thu sang đã đến ngày đông
Những hàng cây xanh đón em áo lộng
Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông

Ta về nơi đây bỗng im tiếng động
Ðã về trên sông những cánh bèo xanh
Có còn trong em những đêm gió lộng
Ngồi bên hiên nhìn bến nước đầy dâng

Có còn trong em những cây nến hồng
Những cầu qua sông những chút tình duyên
Gió trời lênh đênh nhớ con phố hẹn
Ta nhìn ta về giữa trời hư không...

Có một thi sĩ khá cực đoan, không bao giờ muốn thơ mình được phổ nhạc: Nguyễn Đức Sơn. Nỗi ước mơ hòa bình của anh được diễn tả đượm màu tiêu dao:

MAI KIA
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên.

Câu đá, câu mây
Ước mơ đơn giản ấy không dễ gì có được. Nhiều tình huống phải tan hoang sau biến cố “có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn” – như cách nói của một nhà chính trị !

Sau sự kiện “long trời lở đất”, các thi sĩ không theo yêu cầu “thơ phải thế này, thế nọ” sinh sống và cảm xúc ra sao ? Ai cũng có một khoảng trời, một thiên đường mơ ước. Mỗi người chọn môt chốn ẩn giấu, làm nơi dung thân mình. Vẫn chất giọng không thay đổi, Nguyễn Bắc Sơn “Xin bái biệt những người tin rằng thi sĩ chết”:

Bỏ xứ
Mười năm nhỉ, mười năm khuất nhục
Ngồi khua ly trong quán cô hồn
Cô độc quá người thanh niên khí phách
Trời đất bao la mà không chỗ dung thân.

Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.

Xin bái biệt những người tin rằng thi sĩ chết
Và hi hô tát cạn dòng sông
Khi giã từ, ta tặng cho các ngươi cái búa
Ðể đốn đời thánh hạnh của cây thông.

Ở Ðà Lạt, ngoài khung cửa kính
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?

Ở Ðà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây.

Ở Ðà Lạt, lạc đàn dăm bảy đứa
Còng lưng ra mà cõng ba-lô
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô.

Thư:
Từ gợi ý của một số bạn hữu thân thiết, Tản mạn văn học Chắp Tay Dòng Đời đã trải qua 15 kỳ. Một phần góc khuất trong 21 năm Thơ ca Miền Nam được khơi dòng từ một người thuộc lớp sau cùng của VHMN. Các tản mạn đa phần có tính hồi ký, nên có một số chi tiết đã được góp ý nên chỉnh lại cho chuẩn xác, và thú vị hơn.
Người viết xin tạm ngưng truyền mạng 5 kỳ còn lại, và hy vọng Võ Chân Cửu - Chắp Tay Dòng Đời có thể sẽ được in thành sách vào cuối năm 2012.

Võ Chân Cửu

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

VÀNG PHƠI ÁO LỤA - NGUYỄN MIÊN THẢO

Anh về Thiên Trúc nghe kinh
Tình yêu xanh đến vô cùng em ơi
Vô Thường mấy độ rong chơi
Chiều thu,áo lụa vàng phơi điếng hồn
Em đi lặng ngắt hoàng hôn
Và anh theo dấu trăng non cuối ngày
Vời trông theo dáng hao gầy
Thương em chỉ biết giải bày cùng trăng

NGUYỄN MIÊN THẢO

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

NGƯỜI TRẦN GIAN - LÊ NGỌC THUẬN

Quên không được nhớ không xong
Tới lui ta lại lòng vòng lộn quanh
Em là tỏi ta là hành
Để tình kho nấu cơm canh với đời
Có khi mặn rất tuyệt vời
Có khi cay tới tơi bời dung nhan
Trời sinh Thu để lá vàng
Trời sinh em để cho thằng Thuận say.

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

VỚI HUẾ MÙ SƯƠNG - CAO QUẢNG VĂN

Ta về thăm Huế mù sương
Bước chân lạ lẫm
bên đường Huế xưa
Quán gầy guộc vắng
chiều mưa
Sầu đông tím mỏi
gió lùa trăm năm

Thảo thơm
Thoảng chút hương trầm
Vàng thu chiếc lá
Khúc cầm nguyệt xanh
Góc vườn nỗi nhớ vòng quanh
Mây bay từ thuở
trăng thanh chưa về
Ngõ buồn
Đau đáu tình quê
Nửa lùm tre gió não nề cuộc không
Cánh diều vi vút mênh mông
Đường xa lơ đãng
chiều không thấy chiều…

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 113 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Tưởng niệm
Trần Đình Trường
ĐẠI GIA KHÁCH SẠN MỸ
Doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh 1932 tại Hà Tĩnh – Mất tháng 5. 2012 ở Mỹ (81 tuổi).
Trước 75 là chủ đội tàu biển lớn nhất miền Nam, làm giàu nhờ chuyên chở vũ khí, trang bị cho quân đội Mỹ vào miền Nam đánh Cộng sản.

Đến biến cố 30.4.75 đã cùng vợ con (1 con trai, 2 con gái) di tản qua Mỹ. Trong cuộc biến động lịch sử này tự nhận đã dùng đội tàu biển 24 chiếc của mình để chở người di tản – cả dân Việt lẫn Mỹ – qua Mỹ, đến hơn 8.500 người. Tuy nhiên sau đó có người phản bác nói thực sự không phải như vậy mà ông chỉ nhân đó đem theo cả một “núi” vàng qua Mỹ!

Trên đất Mỹ chuyển qua kinh doanh khách sạn tại New York và nhanh chóng trở thành một trùm khách sạn tên tuổi, chuyên mua những khách sạn cũ xuống cấp giá rẻ để tân trang lại phát triển cả một chuỗi khách sạn. Còn xây một trung tâm thương mại VN tại Philadelphia. Trở thành một trong số ít Việt kiều giàu nhất Mỹ với tài sản ước tính khoảng hơn 1 tỉ USD.

Nhưng trong việc làm ăn này cũng từng mắc tai tiếng là sử dụng khách sạn để chứa chấp tệ nạn xã hội như bọn buôn ma túy, gái mại dâm. Từ đó thỉnh thoảng lại bị cảnh sát nhòm ngó, kiểm tra, thậm chí còn đưa ra tòa nữa.

Dù vậy ra tòa lần nào cũng thoát nạn, có lần bị tuyên án 20 ngày tù song kháng án được chấp nhận vô tội. Lý lẽ biện minh là do mình có cho một số dân nghèo không nơi cư trú ở khách sạn không lấy tiền nên bị hiểu lầm, rằng mình bị cảnh sát Mỹ kỳ thị chủng tộc…

Năm 2001 sau vụ khủng bố 11.9 đã tặng Hội Chữ thập đỏ Mỹ 2 triệu USD đồng thời còn cho các tình nguyện viên làm công tác dọn dẹp đống đổ nát 2 tòa tháp bị máy bay khủng bố đâm sập ở khách sạn miễn phí. Những khi người Việt tụ tập về New York họp hành, gặp mặt hội hè đều sẵn lòng tiếp đón, hỗ trợ. Năm 2004 được nhận giải thưởng vinh danh trong cộng đồng Việt kiều Mỹ.

Bí quyết thành công trong sự nghiệp kinh doanh từ VN đến Mỹ: “Tất cả chỉ tập trung vào 2 chữ cố gắng. Cố gắng làm việc thì tất yếu dẫn tới thành công. Tầng lớp nào, nghề nghệp nào cũng vậy thôi. Vừa cố gắng làm việc vừa học hỏi tiến bộ…” Ap dụng thực tế với nhà tỉ phú Việt kiều này ấy còn là sự khôn ngoan, nhạy bén biết “nhập gia tùy tục” đặc biệt là phải nắm luật (Mỹ) để có thể “lách” luật.
Cuối đời bệnh tuổi già bị đột quỵ nằm liệt mấy năm trước khi mất.

1.131 - Đặng Thị Cừ
80 TUỔI BÁN HÀNG RONG NUÔI CON TÂM THẦN
Lao động nghèo sinh 1931 tại Hà Nam. Sống ở Hà Nam (2012).
Lấy chồng cùng quê sinh được 3 con (2 gái 1 trai) thì chồng nhập ngũ vào Nam chiến đấu.
Năm 1968 nhận được tin báo tử chồng đã hy sinh không tìm thấy mộ. Còn lại một mình vất vả chạy vạy tứ phương mưu sinh nuôi con.
Con cái lớn lên, 2 con gái đầu đi lấy chồng xa hoàn cảnh cũng khó khăn chẳng giúp đỡ gì mẹ già. Con trai út năm 1983 vào bộ đội nhờ thời bình nên năm 1986 được cho xuất ngũ.

Không ngờ về nhà, anh con trai bắt đầu có dấu hiệu tâm thần phá nhà phá cửa, bỏ đi lang thang điên điên khùng khùng. Mẹ già chạy đôn chạy đáo nhờ người chữa bệnh vẫn không khỏi.

May sao nhờ thời gian qua đi, đến năm 2000 bệnh con trai đỡ dần, có khi cũng thấy tỉnh trí lại. Từ đó lấy được vợ cùng xã cũng là người thuộc dạng trí óc chậm phát triển, sinh được 1 trai 1 gái.

Nhưng sau khi có đứa con thứ hai năm 2011, bệnh cũ tái phát đánh đập vợ con, tới mức có lần suýt đốt nhà! Vợ sợ quá ôm con về bên ngoại.

Thế là chỉ còn mẹ già lại nai lưng ra nuôi đứa con trai 46 tuổi tâm thần bất định nhưng bà đã hơn 80 tuổi biết làm gì kiếm tiền trong khi trợ cấp Nhà nước chẳng đủ chút nào. Đành bán nhà rồi dắt con dở người lang thang lên Hà Nội bán rong hàng lặt vặt ngoài chợ nhỏ kiếm sống qua ngày, tối về 2 mẹ con ngủ đầu đường xó chợ.
Vậy mà mẹ già cứ canh cánh bên lòng nỗi lo mình mất đi thì thằng con dại khờ biết sống cậy nhờ ai đây?!

1.132 - Thiênna Hồ
KỶ LỤC GIA THẾ GIỚI “THỤT DẦU”
Tiến sĩ, doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh 1968 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1978 lúc 10 tuổi cùng gia đình vượt biên đường biển, bị hải tặc tấn công 5 lần may mà sống sót cập bến Indonesia rồi được Mỹ tiếp nhận.

Lớn lên tốt nghiệp đại học nhiều ngành kinh tế, thương mại, sinh hóa lẫn dinh dưỡng ra lập công ty thành đạt từ năm 27 tuổi.

Vốn đa năng nên cùng lúc còn siêng năng tập luyện thể dục để giữ gìn sức khỏe qua đó mê say tập bài phạt “thụt dầu” (Sumo squats - thường áp dụng trong quân trường rèn luyện tân binh) với động tác đứng lên cúi xuống nhiều lần liên tục trong tư thế chuẩn là phải đứng tấn 2 chân mở rộng rồi co đầu gối cúi cong lưng xuống rồi đứng lên vươn thẳng người. Ban đầu do người bố vốn là một võ sĩ đai đen hướng dẫn.

Chuyên cần rèn luyện như vậy 3 lần mỗi tuần (500-1.000 lần trong 30-45 phút) từ năm trên 20 tuổi, nhờ đó đã đạt tới thành tích thực hiện được 5.384 lần Sumo squats trong vòng 1 tiếng đồng hồ đáng kể là chưa ai làm được. Kể cả nhà Vô địch Thế giới môn này Attila Hovarth vận động viên đẩy tạ 2 lần dự Olympic 1992 – 1996 của Hungary với kỷ lục 4.656 lần/giờ.

Để chính thức hóa việc phá kỷ lục của mình, ngày 16.12.2007 bà đã biểu diễn tài nghệ này trước sự chứng kiến của đông đảo người hâm mộ và cả Ban Biên tập Kỷ lục Guinness Quốc tế tại sân vận động của ĐH San Francisco ở California: Hoàn tất 5.135 lần “thụt dầu” đúng quy cách trong chỉ 1 tiếng đồng hồ (kém thành tích cao nhất của mình phần nào do lúc này đã gần 40 tuổi).

1.133 - Thích Minh Châu
CẦU NỐI PHẬT GIÁO HÒA HỢP CỘNG SẢN
Tu sĩ Phật giáo sinh 1920 tại Quảng Nam. Sống ở TPHCM (2012).
Tu sĩ Phật giáo xuất gia ở Huế rồi du học An Độ đậu tiến sĩ. Năm 1964 trở về Sài Gòn làm viện trưởng Viện ĐH Vạn Hạnh trực thuộc Giáo hội PG VN Thống nhất, là tu sĩ PG hiếm hoi đạt bằng cấp đại học nước ngoài cao nhất thời này nên rất có uy tín trong và ngoài nước.
ĐH Vạn Hạnh đương nhiên truyền bá tinh hoa tư tưởng PG tập trung nhiều giáo sư và sinh viên gốc miền Trung theo đạo Phật mang sẵn tinh thần dân tộc, từ đó dễ chuyển dần qua khuynh hướng thiên tả, thân Cộng chống chế độ Thiệu – Kỳ. Vì thế không lạ sau 30.4.1975 được chính quyền Cộng sản khá ưu ái.

Từ đó vị viện trưởng cũ tỏ rõ theo phái chủ trương “sống chung” hợp tác với Cộng sản do các hòa thượng lãnh đạo PG miền Nam lúc đó Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh dẫn đầu đối lập với phái PG chống đối Cộng sản của hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ.

Bản thân nhờ trình độ trí thức cao, khả năng ngoại giao linh hoạt được cử làm đại diện làm việc trực tiếp với chính quyền Cộng sản. Tích cực tham gia vận động thành lập giáo hội PG mới thiên Cộng là Giáo hội PG VN (giữ chức vụ tổng thư ký) đối lập với giáo hội cũ là Giáo hội PG VN Thống nhất chưa chịu chấp nhận Cộng sản (xem như bị cấm hoạt động, sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời hầu như đã “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”!).
Nhờ đó được chính quyền cho chuyển ĐH Vạn Hạnh thành Viện Phật học Vạn Hạnh rồi lập thêm trường Cao cấp Phật học VN, Viện Nghiên cứu Phật học VN.

Sau khi đã làm được một số việc nhằm bảo vệ và hoằng dương đạo pháp (nổi trội về mặt giáo dục) như trên trong tình thế thời cuộc rất khó khăn, đến cuối đời lặng lẽ rút lui về ở ẩn chuyên lo tiếp tục biên soạn, dịch thuật kinh sách với hơn 30 tác phẩm đã hoàn thành.

1.134 - Thích Quảng Độ
PHẬT GIÁO CHỐNG CỘNG QUYẾT LIỆT NHẤT
Tu sĩ Phật giáo tên thật Đặng Phúc Tuệ sinh 1927 tại Thái Bình. Sống ở TPHCM (2012).
Trước 1975 từng làm Tổng Thư ký Viện Hóa đạo của Giáo hội PGVN Thống nhất (tuơng đương cơ quan “hành pháp” của Giáo hội), sau đó là Phó Tăng thống của Viện Tăng thống (tương đương cơ quan “lập pháp” của Giáo hội).
Sau 1975 cùng hòa thương Thích Huyền Quang viện trưởng Viện Tăng thống đối lập với chính quyền Cộng sản, đòi quyền tự do tôn giáo thực sự.
Vì thế đã nhiều lần bị chính quyết bắt giam, thậm chí đưa ra tòa lãnh án tù: Năm 1977 bị bắt giam ở TPHCM rồi đưa ra tòa nhưng do sức ép công luận quốc tế nên không kết án; năm 1982 lại bị bắt đưa về quản thúc tại quê nhà Thái Bình; năm 1992 được cho về lại TPHCM song qua năm 1994 viết tài liệu cáo buộc chính quyền đàn áp PG (cả gửi thư lên Tổng Bí thư Đỗ Mười lúc đó) nên 1995 bị bắt lần nữa đưa ra tòa chịu án 5 năm tù; đến 1998 được trả tự do trước thời hạn; tuy nhiên 1999 ra Quảng Ngãi vận động Phật tử đấu tranh liền bị bắt áp tải về TPHCM, từ đó xem như bị quản thúc tại chỗ ở nơi mình trụ trì là Thanh Minh Thiền viện.

Năm 2008 sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch, được cử làm quyền Tăng thống. Đến cuối năm 2011 trong Đại hội PGVN Thống nhất tổ chức ở Mỹ mới chính thức được suy tôn làm Tăng thống Giáo hội PGVN Thống nhất (đệ ngũ Tăng thống) trên danh nghĩa vì giáo hội này từ lâu không được chính quyền hiện tại công nhận. Hơn nữa, do tuổi già nên cũng không còn phát triển hoạt động mạnh mẽ như trước kia.
Vì các hoạt động tranh đấu cho quyền dân chủ và tự do tôn giáo nên được một số tổ chức nhân quyền quốc tế trao giải nhà vận động dân chủ như tổ chức Thorolf Rafto của Na Uy năm 2006, tạp chí A Different View ở Châu Au năm 2008 nhưng đều từ chối đi nhận giải vì ngại sẽ không được phép trở về nước nữa.

1.135 - Thích Trí Thủ
DẪN ĐẦU PHẬT GIÁO HÒA HỢP CỘNG SẢN
Tu sĩ Phật giáo tên thật Nguyễn Văn Kính sinh 1909 tại Quảng Trị – Mất 1984 ở TPHCM (76 tuổi).
Tu học tại Huế, năm 1963 dẫn đầu Phật giáo miền Trung chống chế độ Ngô Đình Diệm.
Sau khi chế độ này bị lật đổ, vào Sài Gòn làm viện trưởng Viện Hóa đạo được xem như cơ quan “hành pháp” của Giáo hội PGVN Thống nhất (bên trên còn Viện Tăng thống đóng vai trò tương đương cơ quan “lập pháp” của Giáo hội).
Sau ngày Công sản toàn thắng, bản thân theo chủ trương chấp nhận hòa hợp tôn giáo với chính quyền mới khác với Viện Tăng thống do hòa thượng Thích Huyền Quang dẫn đầu đấu tranh đòi PG độc lập với chính quyền, thậm chí đi đến chỗ chống đối mà đại diện hiện nay là hòa thượng Thích Quảng Độ.
Từ đó năm 1977 từ bỏ giáo hội cũ là Giáo hội PGVN Thống nhất để tham gia vận động thành lập Giáo hội PG mới là Giáo hội PGVN và nhận chức Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội (giống Viện Hóa đạo trước kia).
Trong giai đoạn khó khăn PG phải đối đầu với chế độ Cộng sản “vô thần”, đã đóng vai trò trung gian quan trọng mà tế nhị bảo vệ đạo pháp vẹn toàn theo chính kiến riêng của mình tương tự cố Tổng Giám mục Sài Gòn – Nguyễn Văn Bình bên Thiên Chúa giáo.

1.136 - Tô Kiều Ngân
KHÔNG ĐI H.O
Nghệ sĩ ngâm thơ tên thật Lê Mộng Ngân sinh 1926 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TPHCM (2012).
Lớn lên vào Sài Gòn hoạt động văn nghệ, là một nghệ sĩ đa tài viết văn, làm thơ, dịch thơ Đường, chơi đàn tranh đàn bầu nhưng nổi bật nhất là nghệ thuạt ngâm thơ truyền cảm (kèm thổi sáo, thổi harmonica điêu luyện) qua chương trình thơ Tao Đàn hàng tuần trên Đài Phát thanh Sài Gòn chế độ cũ (phụ trách luôn sau khi nhà thơ Đinh Hùng sáng lập qua đời).
Bị gọi đi lính, ra trường sĩ quan chuyển về ngành tâm lý chiến.
Từ đó sau 75 mang lon trung tá phải đi cải tạo dài ngày.
Nhưng sau khi được trả tự do đã chấp nhận ở lại cùng gia đình không đi Mỹ theo diện H.O.
Trở lại đời thường sống đời thanh thản tìm vui qua những hoạt động văn nghệ thầm lặng như ngâm thơ ghi đĩa, ngâm thơ phổ biến trên mạng, làm thơ nhắc nhớ kỷ niệm quê nhà Huế, nghiên cứu ca Huế, viết báo, viết sách dạy học thổi sáo, ngâm thơ, thổi kèn harmonica…

1.137 - Tô Thùy Yên
BÀI THƠ LỚN TÙ CẢI TẠO
Nhà thơ tên thật Đinh Thành Tiên sinh 1938 tại Gò Vấp, TPHCM. Sống ở Mỹ (2012).
Di cư 1954 vào Nam.
Học ĐH Văn khoa Sài Gòn, làm thơ từ đó gia nhập nhóm Sáng Tạo gồm đa số nhà văn miền Bắc di cư thành lập tạp chí văn nghệ cùng tên vận động mở đường cho trào lưu xây dựng nền VHNT mới cho miền Nam tự do dân chủ.
Trong đó phần mình có đóng góp đáng kể cho thể loại thơ tự do, cùng với Thanh Tâm Tuyền được xem là hai nhà thơ tiên phong của trào lưu này. Tác phẩm thơ thường làm những bài dài mang tính tự sự triết lý sâu xa.
Năm 1963 bị gọi nhập ngũ, ra trường làm sĩ quan tâm lý chiến.
Vì vậy sau 30.4.75 mang hàm thiếu tá phải đi cải tạo hơn 10 năm.
Tuy nhiên sau khi được thả ra còn bị bắt thêm 2 lần nữa vì tình nghi chống đối chế độ cộng sản song mỗi lần chỉ giam giữ khoảng một năm thôi.
Trong thời gian trở về từ trại cải tạo đã sáng tác bài thơ dài “Ta về” 124 câu đáng kể là khúc trường ca thơ bi tráng về chủ đề tù cải tạo có chất luợng, giá trị nhất của các nhà thơ VNCH cũ. Bài thơ đã sớm được chuyển qua Mỹ phổ biến, được nhạc sĩ Cung Tiến bạn thân thiết phổ nhạc năm 1992. Nguyên văn:

Ta về
“Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.

Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa.

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi.

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời.

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.

Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta.

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa.

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi .


Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu.

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên.

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.

Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa.

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi.

Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen.

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đa khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.

Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.”

Năm 1993 cùng vợ con qua Mỹ định cư theo diện H.O, để lại người vợ sau – một nhà văn có tên tuổi - cùng một con gái mắc bệnh dộng kinh trầm kha.
Trên đất Mỹ tiếp tục làm thơ, xuất bản 2 tập “Tuyển tập thơ Tô Thùy Yên” 1995 và “Thắp tạ” 2004.

1.138 - Tô Tiến Hòa
3 ĐỜI NHIỄM CHẤT ĐỘC DA CAM
Nông dân sinh 1948 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2007).
Bộ đội trên chiến trường Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế, bị thuơng nên được đưa ra Bắc an dưỡng năm 1972 rồi xuất ngũ về quê làm ruộng.
Lấy vợ sinh con bị dị tật, teo cơ, da lỡ loét do nhiễm CĐDC. Con lớn lên lấy vợ sinh con cũng bị khuyết tật không có chân, các ngón tay dính vào nhau…
Bản thân ông về già cũng phát tác di chứng về CĐDC gây đau đầu, da lỡ lói, mắt mờ, tai điếc. Nhưng vì thương cháu quá ham học nên hàng ngày phải chịu khó cõng cháu đến trường xin học…

1.139 - Tô Văn Khải
MỘT ĐỜI CÕNG CHA MẸ
Lao động nghèo sinh 1971 tại Tây Ninh. Sống ở TPHCM (2007).
Trong thời chiến tranh chống Mỹ, gia đình sống trong vùng chiến khu Tây Ninh nên cha mẹ bị nhiễm CĐDC lúc nào không hay (còn 4 ông bác ông chú đều là liệt sĩ). Cha bị phù thủng, suy nhược toàn thân; còn mẹ bị trúng miểng bom trong một trận bom Mỹ làm 2 chân co rút lại bại liệt và thần kinh bất ổn nhiều khi mê mê tỉnh tỉnh như người mất trí.
Ngoài ra còn thêm 2 em gái cũng mắc bệnh bại não cứ gặp trời nóng lên là lên cơn động kinh phá phách, cấu xé cả bản thân mình.
Vì thế từ nhỏ đã phải đi bòn mót khoai sắn ngoài đồng, thậm chí còn lượm phân bò đem bán cho nông dân giúp cả nhà thêm miếng cơm cầm hơi.
Năm 1989 gia đình chuyển về sống ở Củ Chi mong “đổi đời” thoát khỏi ám ảnh chiến tranh u ám. Nhưng cảnh nhà vẫn không khá hơn được chút nào do chỉ có một mình mình còn sức khỏe đi ra ngoài làm thuê, tối về cặm cụi đan rổ rá kiếm thêm chút tiền nuôi cha mẹ và 2 em gái. Khi cha mẹ và 2 em lên cơn đau vẫn chỉ một mình lo cõng chạy băng đồng lên trạm xá, chữa trị qua loa về nhà nếu có ai còn lên cơn thì lại cõng đi vòng vòng quanh sân để cho… dịu bớt cơn đau!
Riết rồi chịu không thấu, đến lượt mình bệnh nằm dài cả tháng, thế là cả nhà… đói! Đẩy vào chỗ tuyệt vọng tới mức có lần định cùng cả nhà… uống thuốc trừ sâu chết đi cho xong, may mà cuối cùng kịp tỉnh lại đem giấu chai thuốc trừ sâu không cho ai biết.
Hoàn cảnh bi đát tận cùng như thế mà lại còn phải làm thêm một nhiệm vụ báo hiếu nữa theo yêu cầu của cha là… lấy vợ để dòng họ khỏi bị tuyệt tự!
Cũng lấy được vợ nghèo như mình rồi cũng sinh được bé gái đầu lòng. Đến đó mới nảy ra mối lo nữa không biết cháu có bị ảnh hưởng hậu quả CĐDC hay không khi đến hơn 2 tuổi vẫn chưa biết nói. Ông bà, cha mẹ lo lắng như ngồi trên lửa, may mà đến 3 tuổi thì bé nói được ai cũng mừng không kể xiết.
Tuy nhiên vui mừng chưa được bao lâu thì đại tang kéo đến, đầu tiên một em gái lên cơn động kinh nặng không qua khỏi rồi kéo theo bà mẹ đau lòng quá cũng ra đi theo chân con. Với lời trăng trối để lại cho con trai duy nhất ráng lo tiếp cho cha và em gái được lúc nào hay lúc đó.
Thế là bây giờ lại tiếp tục cõng cha cõng em đi cho hết quảng đời còn lại.
Dù sao nay cũng còn được niềm an ủi là có đứa con gái nhỏ chạy lẫm chẫm theo sau cha cõng ông bà bi bô gọi “ba ba” trong khi lẽ ra em mới là người được cha cõng trên vai!

1.140 - Tod Adamson – Jennifer Arias
QUÊ VIỆT NỐI NHỊP CẦU TÌNH YÊU
Cặp vợ chồng Mỹ sinh tại Việt Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Chồng là con lai Mỹ bị cha Mỹ bỏ rơi, sinh ra lại bị bại liệt nên mẹ Việt đem cho trại mồ côi ở Đà Nẵng trước 1975, được trại đặt tên Việt là Trường Thắng. Tháng 4.1975 được máy bay Mỹ đưa qua Mỹ trong chiến dịch “giải thoát” trẻ mồ côi mang tên Babylift (khoảng 2.000 em qua Mỹ và 1.300 em qua Canada, Uc, Châu Au).
Vợ cũng là con lai Mỹ bị mẹ đem bỏ rơi trước Viện Cô nhi ở Sài Gòn, được các bà xơ nuôi nấng đặt tên Việt là Phương Hồng Lan. Cũng qua Mỹ trong chiến dịch Babylift.
Năm 2000 cả hai đều tìm về thăm lại quê mẹ sau bao năm xa cách, gặp nhau trên cùng chuyến bay từ đó nảy sinh tình yêu. Trở về Mỹ làm đám cưới năm 2001.

(Còn tiếp)

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

CÓ THỂ - LÊ NGỌC THUẬN

Có thể là em giỡn cợt chút chơi
Nhưng tối lại thật tình suốt đời
Có thể em nhẹ nhàng nhẹ hơi
Có thể em nổi cáu cào cấu tơi bời
Như con mèo lên cơn thịnh nộ

Có thể em mĩm cười mím chi
Mộng mị thấy mình như thời con gái
Có thể em nh4ch61 mép coi tôi
Như một ten hề ngu ngơ khờ dại

Có thể em vô tình không biết
Đôi mắt em hàng loạt giết người
Có thề em nhìn tôi
Như ngó chân dung một tay khủng bố

Có thể em quên tôi
Như quên ly đá chanh trong ngày nắng quái
Có thể em yêu tôi
Trong cơn chiêm bao bất chợt

Có thể một ngày em trở lại
Mặc chiếc áo dài xưa đi trên con đường cũ
Có thể em phóng xe ngang qua
Không hề liếc mắt
Mặc cho nỗi buồn tôi nghiêng ngã chập chùng

Có thể em sẽ vác mùa thu trên vai
Đi lang thang giữa Sài Gòn ầm ỉ
Có thể hôm nay ngày mai
Em vẫn nhỡn nhơ ngoài tằm tay với

Có thể - tất cả - có thể
Nhưng tôi là ai
Mà yêu em ngốc nghếch
Mà nhớ em khật khùng
Mà thương em quá đỗi
Một gã cuồng si đâm chém với chính mình ?
Một kẻ côn đồ thất tình lỡ vận
Một trái tim lẫn lộn chính tà
Một linh hồn bốc mùi hoang phế
Tôi là ai
Mà yêu em xiu lòng bạt vía
Người đàn bà có thể …

Bàn rượu một mình
Chưa bắt đầu mà đã như tàn cuộc
Tôi nhớ em hốt hoảng
Bước chân đi chao đảo sơn hà

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

NHỮNG CHIỀU CỦA NGƯỜI CÔ ĐỘC - HẠC THÀNH HOA

1.
Anh còn lại những buổi chiều
Những buổi chiều dáo dác kiếm tìm
Những buổi chiều nghển cổ nhón gót
Những buổi chiều đưa vào quán nước cho thở
Mồi thuốc cho hút, dìu lên xe và đỡ đầu bằng cánh tay êm ái nhất.
Buổi chiều đưa về con đường ký ức ngắn nhất để cùng một lượt
vừa gặp gia đình vừa gặp lại bạn bè.
2.
Anh còn lại những buổi chiều
Những buổi chiều ve vuốt lá xanh xao
Những buổi chiều nghe chuông reo lần cuối
Áo vàng hoàng yến, áo tím hoàng hôn,
lòng tắt nắng trở về.
Ôi những buổi chiều bình minh
Sau một ngày ra công vỡ đất
Sau một ngày tự giam cầm trong vỏ cứng khô
Sau một ngày vác mỏi lu tượng đồng tiếng nói không ngừng
Sau một ngày những cặp mắt bồ câu mỗi lúc một xa
Những bước chân người càng đến gần vực sâu lịch sử
Sau một ngày càng lặng câm lủi thủi càng giống người tiền sử bơ vơ.
3.
Anh còn những buổi chiều
Những buổi chiều mang đến từng cơn gió mát hồi sinh mầu nhiệm
Từng khoảnh khắc ngày tàn để thở ra kỳ hết nỗi buồn
Anh ngây ngất trong em mùi thơm mát dịu của Jasmine
Ôi những chiều vàng đơn độc lang thang trên phố không người
Ta thắp lên đôi ngọn nắng nhớ nhung
Trong mắt tròn ngơ ngác.



Hạc Thành Hoa

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

MƠ TRẮNG - LÊ NGỌC THUẬN

Em có gì với thoáng cô đơn đó
Ta có gì với chút hoang vu này
Một khoảng không dã dượi buồn lây
Mà nụ hôn vẫn còn xa xôi quá

Ta là đá nên suốt đời thất thế
Nàm lặng thinh bất động ngó mây bay
Bởi tuyết trắng nên lạnh lùng thân phận
Sầu chia năm xẻ bảy mộng vàng phai

Không thể xoay ngược lại vòng tạo hóa
Đành để em mất mát tuổi thanh xuân
Còn hơi thở muộn màng nhưng rất thật
Dành cho em riêng lẻ một phương trời

Thành phố ấy không bao giờ hiểu được
Bước chân em hiu hắt tự bao giờ
Ta chọt hỏi ly rượu chiều có biết
Ta thương người ngải ngậm đến trăm năm

Mẹ sinh em - ta cám ơn xứ Huế
Em qua sông – ta chưởi cả Kinh thành
Thiên hạ vốn ồn ào và hổn loạn
Chỉ mình ta nghe dịu tiếng em cười

Từ đồng đá tới bây giờ nhôm nhựa
Không một kẻ nào níu được thời gian
Nên em hãy khởi đầu bằng mộng mới
Mà hôn ta trong giấc ngủ mơ màng

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( kỳ 14) -VÕ CHÂN CỬU

Vói Tay…
Tảng đá quăng xuống dòng suối tạo nên tiếng thác. Tôi đã nghe tiếng chảy ấy bao ngày, nhưng chẳng thể 2 lần vọng lại một thanh âm…

Ý trên của một triết gia thời cổ đại, ai cũng được nghe khi học năm Đệ nhất (lớp 12). Câu văn triết học có thể gợi nên nhiều tứ thơ. Nhưng khi câu không bắt nguồn từ cảm xúc thì bài thơ có khi thành xơ cứng, chơi chữ.
Cảm xúc, hoặc cảm hứng bắt nguồn từ đâu ? Có người giải thích nó là sự mặc khải hay đốn ngộ (như nguồn gốc tôn giáo). Nhà phê bình dung dị hơn gọi đó là độ “chín”. Mà để…chín, mọi sự đều phải qua… nấu; với cây trái là thời gian. Nhiều bạn thơ cho rằng như vậy không nhất thiết chờ ý tưởng triết học mới. Cuộc sống gần gũi biết bao điều. Cái đẹp vốn có sẵn. Tự bản năng là tình mẹ, lòng yêu quê hương, là khát khao tình yêu nam nữ.

Đẹp ngoài ẩn ngữ ?
Tập thơ Ngã Tư & Vầng Trăng của tôi in năm 1990 có nhiều bài trước 1975. Trước tiên, nhiều người nói thích nhất là bài lục bát 6 câu “Cảm Ơn” :

Anh làm thơ cảm ơn em
Cảm ơn cái dáng dịu hiền em đi
Cảm ơn đôi mắt thầm thì
Cảm ơn mái tóc đôi mi biết buồn

Cảm ơn đôi vú em tròn
Để đêm trái đỏ chin vườn chiêm bao

Dễ thuộc nhất là 2 câu cuối. Tôi nghe kể là trong một đêm thơ bất ngờ (không có mặt tác giả) ở Quy Nhơn , cô diễn ngâm và các bạn nữ nghe xong hai câu này đều…che miệng cười. Có phải vì “đôi vú” đã trở thành một từ cấm kỵ ? Hay vì câu thơ chưa hay, từ ngữ không diễn tả được cái đẹp mà bao nhiêu người đi trước đã phải dùng ẩn ngữ ? Miền cao nguyên tôi đang sống, những đàn ông dân tộc Mạ vẫn vang lên câu “nói thơ” mà nhiều nhà nghiên cứu nhất định nó gốc gác của thể thơ lục bát :

Chuốt mũi tên nhắm bắn trái cam
Anh thấy cái vú em tròn, anh muốn ôm hun !

(Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học, nguồn cội thơ lục bát không nhất thiết phải là 2 câu sáu/tám chữ. Từng câu có thể “biến thể” so với quy định, nhưng khi gieo thì thì âm chữ cuối của câu 6 phải vần với chữ thứ 6 (đôi khi có thể linh động với chữ thứ 4) của câu 8. Khi “nói thơ” người đâu tiên đưa ra (hoặc chỉnh sửa từ một câu nói ) một tứ thơ, có vang âm từ ngữ hợp nhịp điệu, thì nói là thơ. Kẻ bắt chước, không có ý tứ hay từ ngữ nào gợi xúc cảm mới, thì nó chỉ là…vè).
Ra tới đảo Cù lao Ré (đảo Lý Sơn), tôi cũng đã từng nghe các bà vợ dân chài kể chuyện ngày xưa từng “hát thơ”, như hai câu:
…(Chớ) Chiều chiều con chong chóng nó quẫy cái đuôi
Anh nói thường em (thì) anh sít lại, (chớ) sao lại ngồi ngó lơ…
(con chong chóng tức con sao biển). Lối gieo vần và cách dùng hình tượng ấy khiến nhiều người làm thơ tự hào là “có học” hôm nay cũng đành phải thua. Sự so bì xin nhường lại cho những nhà thơ “cách tân”.

Tiếng chưa từng nói
VHMN giai đoạn trước 1975 có ai kế thừa những tinh hoa dân gian ấy hay không ? Có “nhà” nổi tiếng làm những bài mang âm điệu ca dao nhưng thật ra chỉ là một loại vè. Trên căn gác nhỏ ở đường Trương Minh Giảng, một bữa buồn tình, Vũ Hữu Định muốn chọc mọi người khi anh “khoe” đã làm được mấy câu thơ lục bát rất mới, rất”hiện thực”:
Vợ tôi mặc áo ca rô
Có hàm răng trắng điểm tô răng vàng !
Anh hài hước nói rằng làm như vậy đâu thua gì cách Nguyễn Bính đã diễn tả: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn…
Tất cả đều bật cười khoái trá. Tôi liền “họa” thêm mấy câu cho thành bài, cho trọn nghĩa:
Vợ tôi ăn nói dịu dàng
Quanh năm chỉ biết làm tàng với tôi.
-Thôi đừng nói nữa em ơi
Nồi cơm đã chín, ta ngồi vô. Ăn !
Nguyễn Bính dùng chữ và miêu tả nôm na mà thành thơ vì ông đã “chín” trong cái hồn quê ?

Nhà thơ Trúc Thông ở Hà Nội là tác giả tập sách “Văn Chương Ngẫu Luận” xuất bản năm 2002. Ông cho rằng: “Đều đều, lẻ tẻ hay vồng lên, cương lên, người đọc thơ đều chán như nhau. Thi ca “ăn” ở những phát giác độc đáo, chớp lên từ những cao trào chân thực cảm xúc”. Sách dành nguyên bài “Một Cách Nở Hoa” để tán thán bài thơ “Lót Dạ” chỉ có 2 câu của anh Khổng Vĩnh Nguyên, một nhà thơ “nông dân thứ thiệt” đang ở Bình Định:

Nắng nung rẫy cát khoai sùng
Con ăn lót dạ một vùng quê hương.

Người làm thơ này đã cho in tập thơ đầu tay “Thắp Lại Niềm Tin” từ năm 1973 ở Quy Nhơn. Tôi biết rõ anh và miền quê ấy. Sinh năm 1956, năm đó anh chưa hề đi lính, nhưng đã mượn vần lục bát để diễn tả nỗi lòng của một ai đó:

Mai Anh Giải Ngũ
Mai anh giải ngũ về rừng
Dựng nhà đốt rẫy, lưng chừng nỗi vui
Đưa em từ dưới miền xuôi
Lên đây thôi hết sụt sùi nhớ thương
Ở đây không có con đường,
Xuống trần gian chỉ một vườn trái xanh
Nghe oanh giục giã trên cành
Nắng hồng lớp lớp bên mành em giăng.

Lời thơ chất phác, hiền hậu quá. Làm ra được câu thơ, phải từ cảm xúc trước cảnh ngộ, tình đời, chứ không nhất thiết bản thân mình đã trải qua. Cảnh thực mà người thơ đã trải qua, khi được diễn tả bằng ngôn ngữ thực lại có sức lay động, trong một bài thơ khác:

Em bỏ ta
Em bỏ ta lại một mình
Nắng khô gốc rạ chút tình bay xa
Ta ngồi nghe bóng chiều tà
Bỏ quên cơm nguội mẹ già rưng rưng
Mẹ già nhìn cơn gió rừng
Gió lang thang đắng, gió lừng khừng bay
Em xa ta xa đời này
Một mình ta dựa hàng cây ven đường !

Nhiều người cho rằng “Gió lang thang đắng, gió lừng khừng bay” mang hình tượng lạ quá, hay quá. Nhưng nếu nhà thơ chỉ hoàn toàn quẩn quanh trong “lũy tre làng”, trong những đường cày, nước lũ xưa cũ thì liệu hồn thơ có còn phát tiết tinh anh ?

Nhà thơ Đặng Tấn Tới trước đó đã trả lời câu hỏi này để rời cõi tình yêu thơ mộng để đi vào cái đẹp cao xa của cõi “Tâm Thu Kinh”:

Những Câu Thơ
Những câu thơ dội vài ba câu hỏi
Trời thơ kia sao vời vợi như không
Mây nước nọ có vì đâu bước mỏi
Qua lại hoài đầu núi, cuối nguồn sông

Những câu thơ căng xuống mộng tơ lòng
Tay phù phép em chạm vào giây phút
Ta vẫn hiểu sầu vui còn cao vút
Một khuya nào ai giải nghĩa trăng trong

Mười lăm hay mười sáu em đong
Tròn và sáng rằm chưa nguôi ước vọng
Ánh mắt làn môi đủ vang dội sóng
Giọt trùng dương chan chứa biết bao dòng
…..
Thơ là tiếng kêu, bàn tay vẫy gọi
Khi gió mây bay, nước chảy quên bờ
Chẳng là gì cũng rất đỗi nên thơ
Chim hót tự nhiên tiếng chưa từng nói…

( Thi tập Trúc Biếc)

Mắt Xanh
Câu thơ hay thường đến rất ngẫu nhiên, nhưng là “tình” đã chín. Có lẽ nhờ vậy mà có người suốt đời chỉ làm dăm ba bài, nhiều lắm là vài mươi bài, nhưng lại “để đời” !
Có thể xem đó là “của trời cho”. Anh Nguyễn Dương Quang ở tác giả bài thơ “Đêm Cuối Năm Viết Cho Má” công nhận điều đó. Anh làm thơ rất ít, không dám nhận mình là thi sĩ, chỉ làm thơ chép tăng bạn bè chơi. Vậy mà bài thơ trên lại khá nổi tiếng, được nhà phê bình Đặng Tiến trích khi viết bài tựa cho Tuyển tập “Thơ Miền Nam Thời Chiến” do Thư Quán xuất bản ở Hoa Kỳ :

“Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng xót xa không

Nguyễn Dương Quang vừa leo xe từ Đà Lạt xuống thăm “Sơn Núi” rồi vô thăm tôi. Anh kể: khoảng năm 1969 anh đóng quân ở quê nhà Phan Rí. Chàng sĩ quan trẻ hay mơ mộng này lại…mê một cô nữ sinh mới 15 tuổi ở một nhà hàng xóm. Anh làm quen và nắm được bàn tay cô gái. Để cách ly, cha mẹ cô nữ sinh tức tốc gửi con lên một nhà bà con ở cao nguyên Đức Trọng đi học . Nguyễn Dương Quang buồn quá, bèn làm hai câu thơ:

Vói tay cao hết sức mình
Níu cao nguyên xuống để nhìn thấy em !

Anh đem đến cho nhà thơ Phạm Cao Hoàng đang dạy học gần nơi anh ở để khoe. Phạm Cao Hoàng xem qua, hết lời khen và xúi: Ông làm thơ được quá ! Làm tiếp nữa đi ! Cuối cùng, sau nhiều năm, Nguyễn Dương Quang cũng cưới được người đẹp ấy.

Hai câu thơ trên cũng trùng “ý” với câu thơ mà Khổng Vĩnh Nguyên làm sau này:

Thương em nhón gót nhìn qua núi
Em đến em đi rất một mình

Những lời thơ chân thật như vậy không nhiều. Và để nó lọt và “mắt xanh” của người biết nhìn ra cái hay thì phải nhờ vào “duyên”. Đây cũng là cõi tình chân mà tôi xin nhắn gửi.
(Còn tiếp)

Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

TỊNH MỘNG - LÊ NGỌC THUẬN

Ở đây đợi nắng Sài Gòn
Một mai tắt thở may còn dấu môi
Càn khôn mấy quẻ mấy lời
Thẻ xăm mang mộng chim trời gió bay
Huế chừ mưa rớt lay cay
Và em quên tuốt mặt mày tôi xưa
Một chai rượu nghe chưa bưa
Hai chai ly chén phỉnh lừa tôi trôi
Mời em – tôi cụng với tôi
Coi như em đã nhấp môi đó rồi
Không ai – uống cạn đi thôi
Nhớ em ôm đại chỗ ngồi trống không
Ngoài kia năm bảy bóng hồng
Thấy như rơm rạ ngoài đồng phơi khô
Tôi mời tôi rượu ni cô
Say rồi kinh kệ hồ đò Như Lai
Hòa bình xa quá bờ vai
Chừ tôi với bóng nằm dài trong đêm
Gầm gừ bất chợt thành tên
Gọi em nghe lạnh gối mền bơ vơ

Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012

CAO HUY KGHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 112 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
1.121 - Du Tử Lê
ĐỆ NHẤT THƠ TÌNH HIỆN ĐẠI
Nhà thơ Việt kiều Mỹ tên thật Lê Cự Phách sinh 1942 tại Hà Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Di cư vào Nam năm 1954. Gia nhập quân lực VNCH, sĩ quan tâm lý chiến.
Bắt đầu làm thơ từ năm 1956. Được xem làm thơ tình hay (và nhiều) nhất trước 75 ở miền Nam, nhận Giải thưởng Văn học VNCH 1973. Có nhiều bài thơ được phổ nhạc gồm “Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau” (Phạm Duy), “Trên ngọn tình sầu” (Từ Công Phụng), “Khúc thụy du” (Anh Bằng)…
Trong biến cố tháng 4.1975, di tản qua Mỹ.
Trên đất khách tuy phải làm nghiều nghề tay trái để sống song vẫn không xa rời nghiệp viết lách, tiếp tục làm thơ và là nhà thơ Châu Á hiếm hoi có thơ in báo lớn như New York Times, Los Angeles Times, được đưa vào giảng dạy cấp đại học, được mời thỉnh giảng đại học (chương trình văn học VN). Ngoài ra còn bắt đầu viết nhiều ghi chép, ký sự đời thường, chân dung văn nghệ sĩ mình quen biết.
Đến nay đã in tổng cộng hơn 40 tác phẩm đủ thể loại.
Đã nhiều lần về nước, năm 2002 từng ra Hà Nội thăm quê Hà Nam. Đặc biệt năm 2005 về TPHCM ủy quyền cho một người bạn in tập “Thơ tình Du Tử Lê” gồm 80 bài sáng tác trong khoảng thời gian 1956-1975. Nhưng về Mỹ lại bị dư luận chống Cộng hải ngoại phê phán nên phải lên tiếng biện bạch đó là do người khác… tự ý xuất bản mình không cho phép!

Từng phát biểu có di nguyện khi mất xin được thủy táng hy vọng biển cả sẽ đưa thân xác trôi về quê nhà.

1.122 - Đoàn Sơn
“EM BÉ NAPALM 2”
Kỹ sư Việt kiều Thụy Sĩ sinh 1957 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Thừa Thiên – Huế (2012).
Sinh ra và lớn lên ở một làng quê bên phá Tam Giang (làng An Truyền), năm lên 4 tuổi cha trúng đạn không biết từ đâu chết tại chỗ.
Năm lên 11 tuổi trong chiến trận Mậu Thân 1968, một quả bom napalm từ máy bay Mỹ ném xuống rơi trúng nhà làm mẹ chết ngay, còn bản thân mình bị cháy toàn thân bốc lửa vừa dập lửa vừa khóc ré hoảng hốt chạy ra khỏi nhà. Sau đó được bà dì bỏ vào thúng gánh chạy lên bệnh viện Huế cách cả mấy chục cây số nhờ cứu chữa.

Tại đây được tổ chức từ thiện quốc tế Terre des Hommes nhận đưa qua Đức chữa trị với đầy đủ phương tiện, thuốc men hơn, rồi sau đó đưa tiếp qua Thụy Sĩ điều trị. Một thời gian dài mới phục hồi, các vết bỏng liền da chỉ còn các ngón tay co quắp không cử động bình thường được.

Xuất viện được một bà mẹ Thụy Sĩ nhận làm con nuôi. Từ người con nuôi bất hạnh đã nhen nhóm trong lòng gia đình Thụy Sĩ này mối tình cảm VN, bà mẹ luôn trích tiền tiết kiệm gửi tặng các bệnh nhân nghèo VN, còn người chị sau này làm Chủ tịch Hội Hữu nghị Thụy Sĩ – VN.

Bản thân được cho ăn học đàng hoàng, vào đại học tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp ra đi làm, lấy vợ Thụy Sĩ sinh 2 con gái 1 con trai.

Trong suốt thời gian trên cố quên quá khứ đau buồn ở VN nhưng càng lớn càng không sao quên được: “Nhiều lúc mình không muốn nhớ đến quá khứ đau thương, hãi hùng nhưng nỗi nhớ nước nhớ nhà luôn thôi thúc mình quay về.”

Vì vậy đến năm 42 tuổI mới bắt đầu đi học lại tiếng Việt, học đến 4 năm mới xong do ở đây ít có lớp dạy tiếng Việt. Rồi năm 1989 lần đầu tiên quay về quê cũ, tìm lại căn nhà xưa tiêu điều vẫn còn đó, ở lì trong nhà “khóc liền 4 tuần lễ”. Gặp lại bà dì đã cứu đời mình ngày xưa, bà vẫn còn sống nhưng trong cảnh neo đơn khi bao người thân đều đã lần lượt ra đi trong chiến tranh.

Dù bịn rịn không muốn xa quê một lần nữa song cuối cùng vẫn phải qua lại Thụy Sĩ còn vướng bận công việc sau khi đã gửi gắm bà dì cho làng nước trông nom giùm. Ra đi lần này với quyết tâm làm việc dành dụm tiền bạc đến năm 50 tuổi sẽ trở về làng ở hẳn.

Thực hiện đúng lời hứa, năm 2007 xin nghỉ hưu non gom hết tài sản chia tay 3 con để cùng vợ hồi hương lo cho bà dì mỏi mòn chờ cháu bao năm.

Cả 2 vợ chồng chung tay sửa sang ngôi nhà tả tơi còn in hằn dấu vết bom đạn, dọn vườn trồng rau cải làm niềm vui. Cả người vợ Thụy Sĩ dần trở thành như một người phụ nữ VN đảm đang đi chợ nấu món ăn VN cho bà dì ăn tấm tắc khen ngon!

Con cái thỉnh thoảng qua thăm, cùng góp tiền cho cha mẹ làm từ thiện giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật, học sinh nghèo trong làng.

(“Em bé Napalm 1” là trường hợp bé gái Kim Phúc bị trúng bom napalm năm 1972 tại Tây Ninh được nhà nhiếp ảnh Nick Ut chụp ảnh đăng báo Mỹ đoạt giải Pulitzer 1973: Xem Kỳ 11).

1.123 - Nguyễn Đức Đạt
NGHỆ SĨ GUITAR KHIẾM THỊ TRÊN ĐẤT MỸ
Nghệ sĩ đàn guitar Việt kiều Mỹ sinh 1970 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Sinh ra đã bị mù mắt bẩm sinh, cha là lính Mỹ ở VN đã bỏ 3 mẹ con (còn một em gái) về nước trước 1975.
Sau ngày Giải phóng không bao lâu thì mẹ mất, bản thân phải sống bụi đời lê la trên hè phố làm mọi việc cực nhọc để sống còn và nuôi em.

Trong những lần dắt em đi ăn xin đến các quán ăn bình dân mới làm quen với những giai điệu ngọt ngào của đàn guitar qua các đàn anh cũng khiếm thị đánh đàn xin tiền khách trong quán. Từ đó say mê xin theo học đàn.

Đến năm 10 tuổi dành dụm được ít tiền mua cây đàn cũ về tự học, tự tập luyện những khi rảnh rỗi. Càng ngày ngón đàn càng điêu luyện cộng với tâm tình u uất thân phận làm tiếng đàn rất có hồn.

Năm 1991 được đi Mỹ theo diện con lai.

Trân đất Mỹ được nhận vào học trung học, có điều kiện thuận lợi hơn để rèn luyện nghề đàn. Từ năm 1993 dự nhiều cuộc thi đàn guitar và liên tiếp thắng giải nên năm 1994 được vào học trường ĐH Fullerton ở California chuyên ngành guitar cổ điển flamengo.

Từ đó thành danh nổi tiếng, làm cây guitar chính trong ban nhạc Bayadera đi trình diễn khắp nơi. Được bầu chọn là một trong 15 nhân vật tiêu biểu cho nền văn hóa đa dạng của Quận Cam, California (trung tâm dân Việt kiều ở Mỹ) bước vào thế kỷ 21.

1.124 - Richard Nguyen
ĐẤU TRANH DÂN CHỦ BẤT BẠO ĐỘNG
Tiến sĩ toán Việt kiều Mỹ tên cũ Nguyễn Quốc Quân sinh 1953 tại Hà Nội. Sống ở Mỹ (2012).

Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Trước 1975 làm giáo viên dạy toán ở Sài Gòn.
Năm 1981 vượt biên theo đường bộ qua Thái Lan rồi qua Mỹ. Học đại học tốt nghiệp tiến sĩ toán năm 1986. Làm việc cho một công ty công nghệ thông tin. Có vợ 2 con.

Song song đó còn tham gia hoạt động chính trị chống Cộng, năm 2002 gia nhập Đảng Việt Tân (Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng) đặt trụ sở tại California chủ trương đấu tranh đòi tự do dân chủ cho VN bằng phương pháp phi bạo lực.

Năm 2007 nhận nhiệm vụ xâm nhập VN bằng đường bộ qua biên giới Campuchia định hoạt động rải truyền đơn chống Cộng thì bị bắt tại TPHCM cùng hai đồng sự. Được nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế vận động can thiệp nên năm 2008 ra tòa lãnh án 6 tháng tù rồi trục xuất về Mỹ.

Đến tháng 4.2012 vẫn được cấp chiếu khán đáp máy bay về TPHCM thì lại bị bắt giữ ngay sân bay Tân Sơn Nhất vì tội âm mưu khủng bố xúi giục người dân biểu tình chống chế độ hiện hành nhân dịp lễ mừng Chiến thắng 30.4 giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tuy nhiên bà vợ ở Mỹ nói mục đích chuyến đi này của chồng mình chỉ là để thăm người em gái còn sống ở VN.

Có thông tin cho biết đương sự là con trai của nữ nghệ sĩ ngâm thơ Hồ Điệp nổi tiếng trong chương trình thơ Tao Đàn hàng tuần trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Năm 1987 bà cũng đã vượt biên theo đường bộ qua Campuchia nhưng rốt cuộc mất tích lúc 58 tuổi.

1.125 - Thanh Lãng
SỰ NGHIỆP VĂN HỌC SỬ CHƯA TRỌN
Linh mục Thiên Chúa Giáo, giáo sư đại học nghiên cứu văn học sử VN tên thật Đinh Xuân Nguyên sinh 1924 tại Thanh Hóa – Mất 1978 ở TPHCM (55 tuổi).
Tốt nghiệp tiến sĩ văn chương ở Thụy Sĩ về Sài Gòn dạy ĐH Văn khoa chuyên về văn học sử VN với ý hướng áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học văn học của phương Tây vào văn học sử VN, đặc biệt chú trọng việc phân chia các thời kỳ văn học trong lịch sử và sưu tầm tư liệu.

Theo ý hướng đó, đã tìm hiểu các tài liệu văn học sử do miền Bắc biên soạn (qua đường tiếp cận từ nước ngoài…) và có sử dụng một số để giảng dạy, viết sách. Đặc biệt bổ sung và nhấn mạnh phần văn học Quốc ngữ của giới Thiên Chúa giáo từ cuối thế kỷ 19.

Từ đó in bộ sơ thảo văn học sử mới của riêng mình tựa đề “Bảng lược đồ Văn học VN” 2 cuốn thực chất là các bài giảng ở đại học.

Còn tham gia hoạt động văn hóa làm chủ biên tạp chí Nghiên cứu Văn học, Tin sách. Nhận chức Chủ tịch Hội Văn bút VN, tham gia Hội đồng Văn hóa – Giáo dục VNCH thời Tổng thống Nguyễn văn Thiệu.

Sau 30.4.1975 đương nhiên không được tiếp tục dạy đại học nên cộng tác với Phân viện Khoa học Xã hội tại TPHCM, chuyển qua nghiên cứu chữ Quốc ngữ dựa vào nhiều tài liệu thu thập từ Pháp và Tòa thánh Vatican. Tham gia sinh hoạt trong Hội Trí thức yêu nước TPHCM (tập hợp số trí thức không Cộng sản còn ở lại), từng có quan điểm không tán đồng chủ trương của Vatican phong thánh cho 117 Thánh tử đạo VN. Vì vậy bị giới Thiên Chúa giáo chính thống phê phán thân Cộng “bênh vực chế độ”.

Năm 1997 “Bảng lược đồ Văn học VN” dày 1.800 trang được in lại.

1.126 - Thành Được
“TRỐN” Ở LẠI PHÁP
Nghệ sĩ cải lương Việt kiều tên thật Châu Văn Được sinh 1933 tại Sóc Trăng. Sống ở Mỹ (2012).

Trước 1975 là “kép đẹp” nổi tiếng trên sân khấu cải lương Đoàn Thanh Minh ở Sài Gòn chỉ xếp sau “đệ nhất danh ca” Ut Trà Ôn. Tuy giọng ca không ngọt bằng Ut Trà Ôn nhưng ngoại hình ăn ảnh hơn.
Từng lấy 2 nữ danh ca cải lương cũng vào hàng Số 1 thời đó Ut Bạch Lan và Thanh Nga.
Sau ngày Giải phóng, vẫn ở lại tiếp tục trình diễn sân khấu có mặt đóng chung với Thanh Nga trong vở cải lương nổi tiếng “Thái hậu Dương Vân Nga”.

Được Nhà nước tin cậy nên cho tham gia doàn nghệ sĩ qua Đức biểu diễn lấy uy tín cho chế độ Cộng sản hiện hành. Bất ngờ khi đi ngang qua Pháp được phe nhóm chống Cộng hải ngoại chiêu dụ liền bỏ trốn khỏi đoàn xin chính quyền Pháp cho ở lại “tị nạn”!

Sau đó qua Đức lập nhà hàng sinh sống. Một năm sau vợ được phép xuất cảnh qua Đức đoàn tụ với chồng. Đến 1995 chuyển qua Mỹ cũng làm chủ nhà hàng. Thỉnh thoảng đi hát sô cho đỡ nhớ nghề.

Năm 2006 lặng lẽ trở về VN mà công chúng không hề hay biết. Đi thăm mộ các đồng nghiệp cũ như nữ nghệ sĩ Như Ngọc, 2 tác giả cải lương Hà Triều – Hoa Phượng, còn ca vọng cổ hoài niệm trước mộ Ut Trà On. Tìm thăm bà thầy NSND Phùng Hà lúc đó còn sống mà mình “tưởng đến chết không gặp nữa rồi”!

Năm 2008 cả 2 vợ chồng cùng về làm đơn kiện… đòi nhà ở TPHCM!

1.127 - Thảo Trường
NHÀ VĂN CẢI TẠO LÂU NHẤT
Nhà văn Việt kiều Mỹ tên thật Trần Duy Hinh sinh 1936 tại Nam Định – Mất 2010 ở Mỹ (75 tuổi).
Là giáo dân đạo Thiên Chúa nên di cư vào Nam 1954, để lại bà mẹ ở miền Bắc (bố đã mất).
Gia nhập quân lực VNCH làm sĩ quan pháo binh, sau chuyển qua ngành an ninh quân đội. Từng có mặt trong phái đoàn VNCH bay ra Hà Nội làm công tác trao trả tù binh năm 1973.

Trong thời gian này có tham gia hoạt động sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết từ khá sớm, cộng tác với nhóm Sáng Tạo. Có tác phẩm đầu tay “Thử lửa” in năm 1962.

Về sau viết truyện theo khuynh hướng ủng hộ hòa bình, hòa giải dân tộc gần gũi với các nhóm phản chiến Công giáo chủ trương 2 tờ tạp chí Trình Bày, Hành Trình. Nổi bật có truyện ngắn “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” được dịch ra tiếng Pháp in chung trong một tuyển tập ở Pháp. Đến 1975 đã ra mắt hơn 5 tác phẩm.

Sau 30.4.75 mang lon thiếu tá an ninh quân đội là ngành “độc” (chuyên thẩm vấn, tra tấn tù binh Việt Cộng) nên phải đi cải tạo lâu dài đến 17 năm qua 18 nhà tù từ miền Nam ra miền Bắc. Vợ con trước đó đã kịp di tản qua Mỹ.

Năm 1992 được trả tự do, qua năm sau đi H.O qua Mỹ.

Trên xứ người bắt đầu viết trở lại: “Chế độ chính trị không bắt tôi im được mãi, họ chỉ cản trở tôi được một giai đoạn thôi.”

Tám tác phẩm mới thời kỳ này đượm chất suy tư về quá khứ chiến tranh: “Cuộc chiến tranh VN chỉ thực sự chấm dứt ngày 4.5.1992, ngày 4 tù cải tạo cuối cùng được thả” (4 tướng Lê Văn Thân, Đỗ Kế Giai, Trần Bá Di, Lê Minh Đảo). Và về kinh nghiệm sống trải qua các trại cải tạo: “Tất cả đau khổ, tàn nhẫn, xót xa mà anh em trong tù phải chịu, những cảnh trớ trêu mình gặp hay sự dốt nát tội nghiệp của cai tù… đều đòi hỏi mình để tâm phân tích…”

1.128 - Thế Nguyên
HỒI CHUÔNG TẮT LỬA
Nhà văn tên thật Trần Gia Thoại sinh năm 1942 tại Nam Định – Mất 1989 ở TPHCM (48 tuổi).

Theo gia đình đạo Thiên Chúa di cư vào Nam 1954, tốt nghiệp ngành công chánh ra làm công chức.
Song song đó bắt đầu viết truyện. Năm 1964 xuất bản cuốn truyện vừa (chỉ khoảng 100 trang) “Hồi chuông tắt lửa” gây ấn tượng mạnh về đề tài, khung cảnh, chất liệu suy tư, bút pháp cô đọng viết về những xung đột âm ỉ giữa những con người khác chính kiến trong lòng một xóm đạo chia rẽ vì quan điểm chính trị đối nghịch thời chống Pháp.

Cuối năm 1960 được Cộng sản móc nối. Từ đó năm 1967 nhờ gia sản của vợ đã đứng ra lập nhà xuất bản Trình Bày rồi bán nguyệt san Trình Bày năm 1970 tại Sài Gòn tập hợp giới trí thức văn nghệ sĩ đa số theo khuynh hướng Công giáo tiến bộ thiên tả. Từ in sách đến in bài trên báo thường xuyên đã biến nơi đây thành một diễn đàn chủ lực của phong trào phản chiến vận động hòa bình chống chế độ Thiệu - Kỳ.

Bản thân còn tìm mọi cách phát triển nhóm Trình Bày ra rộng rãi qua một số tờ báo khác do chính mình đóng vai trò chủ chốt như nhật báo Làm Dân, tạp chí Đất Nước, Nghiên cứu Văn học… Nhiều lần bị chính quyền VNCH o ép, tịch thu, đưa ra tòa…

Trở thành một nhà báo lăn lộn từng trải, quán xuyến, đa năng nên cũng không còn thì giờ quan tâm đến việc sáng tác nhiều nữa (còn in thêm vài tập truyện khác song không còn giữ được độ sâu sắc, sức nặng cảm xúc bằng “Hồi chuông tắt lửa”).

Sau ngày Giải phóng, là nhà văn “Ngụy” hiếm hoi được chế độ mới đưa vào Ban Chấp hành Hội Nhà văn TPHCM xem như đại diện cho giới nhà văn “tại chỗ” nhưng hầu như chẳng có quyền hành, tiếng nói gì đáng kể, ngoài việc được giao đi… sửa morasse cho tuần báo văn Nghệ TPHCM! Còn nhà xuất bản lẫn tạp chí Trình Bày thì đương nhiên đóng cửa vô điều kiện, vô thời hạn.

Thật ngẫu nhiên trùng hợp như một định mệnh, bấy giờ cuộc đời lâm vào cảnh thất vọng tràn trề khi lý tưởng từng ấp ủ đấu tranh nay phải đối diện với thực tế phũ phàng giống đúng như “Hồi chuông (đã) tắt lửa” – cũng là “Tắt lửa lòng”! -- tên tác phẩm đầu tay mà cũng là xuất sắc nổi tiếng nhất của mình!

Cuối cùng định mệnh còn ra tay giúp kết thúc sớm cuối một đời văn đời hoạt động văn hóa nửa đường đứt gánh cay đắng bằng một cái chết hết sức vô duyên: Ngồi buồn dùng dao cạy mụn cóc nơi bàn chân bị nhiễm độc phong đòn gánh chỉ qua một ngày không cứu sống kịp!

1.129 - Thế Phong
NHÀ VĂN MỘT MÌNH MỘT CHỢ 2 CHẾ ĐỘ
Nhà văn tên thật Đỗ Mạnh Tường sinh năm 1932 tại Yên Bái. Sống ở TPHCM (2012).
Di cư vào Nam 1954 đi lính không quân.
Bắt đầu viết văn từ năm 1952, sau đó viết đủ thể loại cả thơ lẫn tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học, lịch sử văn học, chân dung văn nghệ sĩ, bút ký, hồi ký… Viết rất nhiều rồi tự lập cơ quan xuất bản “tư” Đại Nam Văn Hiến chuyên in tác phẩm của mình dưới dạng ronéo thời trước.

Tự cho mình tách ra trong dòng văn học miền Nam thời đó như một nhà văn độc lập, nhà văn “nổi loạn” không theo bất cứ khuynh hướng, trào lưu hay phe nhóm nào (không tỏ rõ thân Cộng hay chống Cộng) mà ngược lại còn mạnh miệng phê phán tất cả. Khiến ai cũng “ngán” không muốn đụng vào, cho là nhà văn “côn đồ”!

Sau 1975, thời gian đầu thấy khó tiếp tục hoạt động văn chương theo kiểu cũ nên tạm gác bút ra đường làm nghề lao động kiếm sống từ bán lẻ bánh bông lan lề đường (vợ bán nón) đến làm lơ xe bus rồi được nhận vào làm công nhân công ty xe khách TPHCM.

Đến thời Đổi mới thoáng hơn mới xin nghỉ hưu non năm 1992 quay về lại với nghề viết bây giờ thay vì in ronéo phổ biến hạn chế như trước kia thì đã có Internet tha hồ đưa bài lên mạng. Vẫn viết nhiều, viết đủ thứ trong đó có cả mảng bài viết về những chuyến trở lại miền Bắc gặp lại thân hữu bạn bè văn chương cũ nhưng tránh đề cập vấn đề chính trị.

Một số tác phẩm đã được in lại ở Mỹ, Pháp.

1.130 - Thích Hằng Trường
PHƯƠNG PHÁP “TU TOÀN DIỆN”
Tu sĩ Phật giáo Việt kiều Mỹ sinh 1962 tại Huế. Sống ở Mỹ (2012).
Con trai út trong gia đình 11 anh chị em con bác sĩ Lê Khắc Quyến khoa trưởng đầu tiên của ĐH Y khoa Huế.

Năm 1967 sau khi cụ bác sĩ thân sinh mất chức do theo phong trào Phật Giáo miền Trung chống chế độ Thiệu – Kỳ, theo gia đình vào Sài Gòn học trường Petrus Ký.

Năm 1980 theo tàu vượt biên qua Mỹ.

Một năm sau chuẩn bị vào đại học ngành hóa thì được hòa thượng Tuyên Hóa khai sáng, giác ngộ lẽ đạo nên bỏ học xuất gia.

Chuyên tâm nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo Đại thừa, từ đó sáng tạo nên lý thuyết “tu toàn diện” bắt đầu từ năm 2002 ở California truyền bá rộng rãi trong quần chúng qua nhiều buổi thuyết giảng, pháp thoại tại chỗ hoặc trên đài truyền hình, phát thanh thu hút nhiều tín đồ hâm mộ.

Chủ trương “tu toàn diện” gần với quan điểm Phật giáo mang tính ứng dụng thực tiễn phổ biến, hiện đại hóa đi vào cuộc sống hiện thực gần gũi nhân sinh của thiền sư Nhất Hạnh, qua đó chú trọng dạy cho môn đồ cách kết hợp tu đạo cùng nghệ thuật sống chan hòa với mọi người trong xã hội: “Có thể hiểu “tu toàn diện” là một mặt đem tình thương trải tràn khắp chốn, mặt khác hãy xây dựng một phương thức sống mới…”.

Nhấn mạnh tu nhập thế nhắm mục đích phục vụ cộng đồng hiệu quả nhất là về mặt tinh thần chứ không phải xuất thế đi ở ẩn: “Trong cuộc sống hãy lấy tình thương mà giải quyết. Lấy lý thì có cãi cọ, chỉ lấy đạo ra mà làm, đừng nói gì hơn. Trong cuộc đời chúng ta sống được là nhờ có tình bạn, tình huynh đệ chia ngọt xẻ bùi từ đó mà phát khởi tình yêu dân tộc, đất nước. Đùng nhìn về quá khứ mà hãy nhìn vào hiện tại. Đừng để những tư tưởng xung khắc nhỏ biến thành những bức tường dày chia cách nhau…”

Song song phần lý thuyết còn hướng dẫn cách tu tập kết hợp với các phương pháp tập Thiền, yoga, khí công. Lập Hội Từ bi phụng sự để góp phần hỗ trợ công việc truyền đạo.

(Còn tiếp)

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

MƯA TỪ HÔM QUA - THÁI NGỌC SAN

Anh đi rồi còn tôi ở lại
Mưa từ hôm qua tới bây giờ
Chiếc quán đời ai thắp ngọn lửa
Chỗ ngồi anh lạnh giá ngày mai

Người ta vẫn nơi phồn hoa đô hội
Ai biết anh ai biết lòng tôi
Xe thời đại lăn hoài không tới
Ngục tù anh là ngục tù tôi

Mưa từ hôm qua thành bão rớt
Cờ không bay trên ngọn cổ đài
Tôi bước đi như người bỏ cuộc
Mơ thấy mình ngã ngựa trần ai

Người ta vãn xum xoe áo mão
Hội quần anh rồi hội quần thao
Hý trường vang vang lời đại cuộc
Tôi tìm anh biết ở chỗ nào

Anh đi rồi quán đời lạnh lẽo
Mưa bay ngoài hàng cửa song hàn
Tôi tìm lại bến đời khô héo
Những tàn bông nối những tàn bông.

THÁI NGỌC SAN
(Trích từ Thơ MIỀN NAM TRONG THỜI CHIẾN, trang 646. TỦ SÁCH DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM – THƯ ẤN QUÁN xuất bản 2006, USA)

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

BẤT CHỢT - HOÀNG THỊ THIỀU ANH

Bất chợt một ngày
Bất chợt nắng…
Bất chợt một ngày
Bất chợt mưa…

Bất chợt xa Anh
Bất chợt nhớ
Bất chợt mộng về
Bất chợt
Yêu !

HTTA

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

KHÔNG ĐỀ - NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

Nhốt nỗi cô đơn vào bốn bức tường
răng rắc
tiếng côn trùng nghèo giấc ngủ
tha thẩn em
bong bóng vỡ rạn dày nước mắt...

Nhốt nỗi cô đơn vào bốn bức tường
rêu rắc
thời gian có đợi chờ ai không phía tầng tầng mây kín
núi có ầm ào đến tiềm tiệp màu mây
em vẫn trong như biển
xanh một màu thủy chung

Nhốt nỗi buồn lại để ngưng niềm vui lên khuôn mặt
khuất lấp chân trời
mỏi đôi chân
mỏi ánh mắt
hướng về miền không gió

Nhốt nỗi đau trên hình hài đêm đợi bình minh sáng lên
trăm bậc cửa đa mang
màu trời chiếu về vô tận
nỗi nhớ đóng băng em

bốn bức tường chắn hết mọi suy nghĩ bao dung
mơ về hạnh phúc
tiếng côn trùng mồ côi đêm nay đi qua em bằng tí tách
bên ngoài khung cửa ước nhèm đôi tình nhân....

Có ai nhốt được trái tim em bằng anh
khi mặt trời về bên kia núi
bóng tối
sâm sấp bàn chân...

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

VỀ MỘT DẤU YÊU - HOÀNG LỘC

có những lúc ta cùng ta ủ dột
em hồng nhan là chuyện của trời cho
thì hà cớ đời ta thêm bứt rứt
khi em đi thăm thẳm một nhà người

ta mới đó mà điêu tàn phong độ
không làm xong nhiều thứ phải cần xong
cứ đứng ở đầu sông mà tiếc nhớ
nước sông trôi sùi sụt mãi trong lòng

ai biểu cứ thương một lần hạnh ngộ
áo em bay không ngớt gió trong đời
ta khóc ngất bao lần sau bóng áo
dẫu mơ hồ nghe được chút thơm rơi

biền biệt mãi những gì ta tưởng gặp
ngày điêu linh nắng rớt cuối con đường
em yêu dấu, em đã từng ngoảnh mặt
thì sá gì dâu biển phía sau lưng...

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 13 ) - VÕ CHÂN CỬU

Lá Cỏ và Sao Lạp

Sài Gòn-chốn ngựa xe xô bồ, tới nay vẫn là vùng đất của dân nhập cư. Mỗi giai đoạn, diện mạo văn học của nó đều tiêu biểu cho sự tổng hợp.
Những người nghèo vào Sài Gòn thường kiếm sống bằng chạy xe ôm, làm thợ hồ hay phu khuân vác. Nếu hỏi anh bỏ quê vô đây làm gì, mọi người dễ nghe câu trả lời: để làm thơ ! (giọng người từ Quảng Nam đến Phú Yên thường phát âm chữ thuê thành “thuơ”).
Chuyện tiếu lâm nêu trên cho thấy những miền đất khắc nghiệt thường sản sinh ra nhiều người làm thơ (Thực tế khá nhiều người có tài, đã thành danh). Tình hình đó nay đã khác. Có thể do khá nhiều nhà lãnh đạo khi có công danh muốn chứng tỏ mình thuộc dòng…văn hiến, nên sáng tác nhiều thơ, dễ nhất là theo lối…Bút Tre. Cấp dưới xum xoe, xưng tụng, riết thành “phong trào”. Để hủy diệt một giá trị tinh thần, cách hay nhất là đánh đồng nó với đầy dẫy những sản phẩm tầm thường. Chế độ tự do xuất bản ở xã hội tư bản khiến mỗi nhà xuất bản phải tự bảo vệ thương hiệu của mình, chỉ in ra những tác phẩm đáng đọc, không nhằm vào mục đích thu “quản lý phí”. “Tác giả tự xuất bản” có thể tạo ra dư luận nếu tác phẩm có giá trị văn học.
Văn học Miền Nam (VHMN) chỉ tồn tại có 21 năm đã sản sinh ra nhiều cây bút-dù thuộc phái “viễn mơ” hay “hiện thực”- nhưng đều có tính cách riêng. Các nhà làm văn học sử sẽ tổng hợp các điều kiện xã hội, nguồn tư tưởng thời đại để phân tích ra các xu hướng sáng tác. Hạnh phúc tình yêu và cõi vĩnh hằng-bất tử vẫn là 2 ngã hướng tới của những người làm ra cái đẹp nghệ thuật. Nhưng VHMN giai đoạn này, có thể do sự sống và cái chết quá liền kề, tất cả đều ngắn ngủi nên 2 lĩnh vực trên gần như có sự pha trộn. Cái đẹp tầm thường có thể là sự linh thiêng, cứu rỗi. Ngôn ngữ diễn đạt trong thơ, đã có những nhịp điệu tìm kiếm riêng.

Qua Vùng Chiến Tranh
Ta nghe chính tại nơi này
Năm rồi trận đánh phơi thây hàng ngàn
Bây giờ cây mởn lá xanh
Gió xôn xao thổi cỏ tranh ngập đầu
Máu xương dấu tích còn đâu
Còn trơ lô cốt bên cầu bỏ hoang
Gạch vôi lở loét rêu phong
Tường xiên xiên ngã theo dòng thời gian.
(Sưu tập của VCHC)

Ca tụng thân xác
Trần Đức Uyển, người khởi đầu làm thơ từ nhóm Tạp chí Văn nghệ (sau này ông nổi tiếng hơn với bút hiệu Tú Kếu làm thơ trào phúng) từ giữa những những năm 1960 đã ghi nhận sự vô nghĩa của cuộc chiến tranh, điều mà Nguyễn Bắc Sơn sau này xem đó là “như một trò chơi”. Trước tình cảnh đó, một số cây bút trẻ có xu hương đi vào “tìm sự giải thoát”. Trước tiên là cái đẹp của tình yêu, có khi pha chút “tưởng tượng thân xác”. Nguyễn Tôn Nhan, vào 1970 sau khi ngắm “Áo Ai Bay Trên Lầu Cũ” và ồ lên “Trăng cổ lâu ồ trăng cổ thi/Người ơi cho nhớ chút xiêm y”, đã xúc cảm quẩn quanh hơn:
Chỉ Có Lá Cỏ Là
Chỉ có lá cỏ là
Rỉ máu năm mười ba
Chỉ có cô tiểu thoa
Là rên năm mười tám

Chỉ có em là đáng
Xỏ mũi anh suốt đời
Chỉ có cỏ lá ơi.
(Tuần báo Khởi Hành)
Cùng với Nguyễn Tôn Nhan, Đặng Tấn Tới từ vùng đất Bình Định bày tỏ sự say đắm với hình tượng này (về sau hai người trở thành sui gia) :

Chơi Lá Cỏ
Em về chơi lá cỏ
Hát mấy ngõ thanh xuân
Ta vào trong hội mừng
Quên hết màu sinh diệt
(Thi tập Trúc Biếc, 1971)
“Lá cỏ”, biểu tượng cho thiên nhiên thuần khiết hay sức sống căng đầy của các nàng thiếu nữ ? Biểu tượng tình yêu gắn liền với sự sinh tồn, biểu tượng của thân xác và cách sống hiện sinh thâm nhập từ các tư tưởng triết học của thời đại đã được các thi sĩ diễn tả. Một nhà thơ khác là Hoa Tưởng Dung, (bút danh chỉ xuất hiện đôi lần trên vài tạp chí) bày tỏ cụ thể hơn về khoảng cách giữa hữu hạn và vô hạn:

Thiên tinh
Không ai hay biết
Ta là hương thơm
Sống còn hủy diệt
Trong làn gió vương !

Không ai hay biết
Tình cờ! Tài năng !
Vừa mới thoảng đến
Công trình đã xong !

Không ai thấu rõ
Tài trí tuyệt vời
Chờ bao lầm lỡ !

Không ai tỏ hay
Thời gian vú bày
Giữa hai áo ngủ !

Thơ lúc này có xu hướng mang hình thái tư duy của triết học . May mắn là khúc cuối bài thơ xác định được “cái đẹp” sẽ là sự cứu rỗi cho mỗi người như kết luận của một số triết gia. “Cái đẹp” không nằm ngoài thân xác. Một giáo sư triết học nổi tiếng lúc này cũng cho in hẳn một cuốn sách về đề tài này: Ca Tụng Thân Xác.

Mong manh “Sao Lạp”
“Quên hết màu sinh diệt” bằng đường “ca ngợi thân xác” có khi là sự chạy trốn không thành. Nhà thơ có khi vì chiến tranh và xã hội vây hãm nên đã tự mình tìm vào nẻo thần bí nào đó. Tôn giáo, có khi là một cứu cánh, nhưng với người làm thơ, tôn giáo lại đậm màu tư duy về cõi vô cùng. Phạm Phú Hải, một người làm thơ lặng lẽ ở Đà Nẵng, không gửi in báo nào ghi lại cảm thức ấy như sau:

Chùa Phổ Đà Nẵng
Lạnh mùa thu ở trong núi đá
Có con cá nhỏ chết bên cầu
Có con chim nhỏ vì vui qúa
Cũng chết bên cầu ấy bữa xưa

Có gã thư sinh lên núi đá
Hỏi thăm đường đến chốn bất lai
Trăng khuya úp mở sa ngàn lá
Bướm đã đàn đàn chấp chới bay

Có lão tiều phu trong núi đá
Mười năm say hương quế quên về
Lều dựng gió đẩy rung mái gió
Một bầu cổ nguyệt chảy tràn khuya

Trăng khuyết xuôi, trăng tròn, trăng khuyết ngược
Bứt tháng, hái ngày, phơi khô năm
Năm khô, rau mới đùn rau cũ
Sợi sợi án ngời vô lượng quang

Xuất định bốn bề sương giọt giọt
Con chim xưa sống lại bên cầu
Tiều lão mặt trời vai tịch tịch
Mặt trời rơi xuống giữa dòng sâu

Chẳng đến đâu, chẳng từ đâu đến
Con chim ngày cũ hót inh rừng
Một cầu lặng ngắm hai dòng nước
Một chảy xuôi đông, một ngược nguồn

Không ở đâu, không đâu chẳng ở
Cá hồi dương lội ngược chiêm bao
Cầu gãy hai bờ xương tương ngộ
Trùng phùng từ hội đất chiêm bao

Mùa thu núi đá lạnh vô cùng
(Bản thảo gửi VCHC, 1972)

Nhiều nhà phê bình lúc này gán ghép những nguồn thơ mang dấu vết “suy tư” nói trên vào dòng thơ Thiền. Có thể ảnh hưởng của triết học Phật giáo lúc này lan tỏa rộng. Nhiều người lại nói rằng “thơ Thiền”, trong cách biểu hiện, phải gần với một “công án”, nên cho rằng đó là dòng thơ “tâm linh”. Thực ra, để thành thơ, thì nó phải mang hoặc xuất phát từ cõi tâm linh-trừ những “nhà dùng thơ” dùng văn vần vào mục tiêu “phục vụ” hay rao giảng. Nhìn rộng ra, trong VHMN từ những năm 1950 đã có nhiều người đi theo khuynh hướng. này. Như Thạch Trung Giả, nhà nghiên cứu và là một thầy giáo nổi tiếng ở Nha Trang qua bài “Đàn Sao Lạp”:

Đàn rơi tiếng trầm
Sao rớt từng không
Sao không còn tăm
Đàn dư tiếng dội
Gieo trong lòng đàn
Sao trên Đại Hoàn
Đàn trong U Để
Lạp kia se sẽ
Hồng rung ngập ngừng

Phải chăng cẩm âm
Vào trong tiếng lạp.

Giữa bất an của đời sống hiện thực, dòng thơ tâm linh giúp con người nhận ra thế giới vi diệu và kỳ diệu, đáng sống hơn. Những dòng thơ khác, nếu thực là thơ, sẽ tác động đến tâm hồn ra sao ?

(Còn tiếp)

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1.111 - Thái Thủy
HẾT CẢI TẠO VẪN CHƯA HẾT TAI ƯƠNG
Nhà thơ tên thật Phạm Thái Thủy sinh 1937 tại Hà Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Di cư vào Nam 1954, gia nhập nhóm Hiện Đại (tên tạp chí xã hội - văn nghệ do nhà thơ Nguyên Sa chủ trương) quy tụ văn nghệ sĩ miền Bắc di cư.
Trong thời gian này làm bài thơ “Lá thư gửi mẹ” được Nguyễn Hiền phổ nhạc năm 1955 nhiều người biết tiếng, bài thơ mô tả tâm tình của lớp người di cư vẫn hoài vọng một ngày về quê cũ miền Bắc:

“Mẹ ơi! thôi đừng khóc nữa
Cho lòng già nặng sầu thương
Con đi say tình viễn xứ
Đâu có quên tình cố hương.
……………………
Con về tằm đẹp lứa
Mẹ cười vun khóm dâu

Mái tranh nghèo vươn khói
Vườn thơm ngát hương cau…”

Nhưng làm thơ, làm báo không nhiều mà chủ yếu làm quan chức lớn trong ngành phát thanh trong đó có tham gia xây dựng chương trình tiếng thơ Tao Đàn hàng tuần trên Đài Phát thanh Sài Gòn.
Vì thế sau Giải phóng phải đi cải tạo 10 năm.
Năm 1986 được thả về. Đến lúc về nhà ở TPHCM mới ngã ngửa biết rằng trong thời gian qua vợ đã… bỏ đi lấy người khác! Dù vậy vẫn đành cắn răng chịu cảnh ở chung nhà cùng vợ và chồng mới (do còn trong thời gian quản chế phải cư ngụ đúng địa chỉ đã đăng ký từ trong trại cải tạo). Ngày ngày đi dạy kèm kiếm sống.

Năm 1990 mới tách ra ở riêng lấy vợ mới thì một tháng sau… bị bắt lại do có dính líu đến hoạt động đấu tranh đòi tự do dân chủ của bác sĩ Nguyễn Đan Quế.
Đến năm 1995 được các tổ chức nhân quyền quốc tế vận động trả tự do.
Qua năm 1998 cùng vợ sau đi Mỹ định cư, để lại mẹ già còn ở Hà Nội và 4 con ở TPHCM.
Nhưng vừa qua không bao lâu cả 2 vợ chồng gặp tai nạn giao thông, bản thân bị thương nặng (lòi ruột) may mà được cứu sống kịp thời.
Ra viện làm thủ tục bảo lãnh cho 2 con gái qua (2 con trai đã lập gia đình không đi) được một thời gian thì một con gái xin quay về lại TPHCM sinh sống.
Ngoài bài thơ “Lá thư gửi mẹ” còn làm một số bài thơ khác song rất ít phổ biến. Trước kia ở Sài Gòn chưa hề in tác phẩm mà qua Mỹ được Nguyên Sa đề nghị in cũng từ chối tuy còn lưu giữ khoảng 100 bài.
Phải chăng với hơn nửa đời người cuối đời gặp quá nhiều cảnh ngộ truân chuyên vừa bất lực vừa cay đắng cùng cực như thế từ thời cuộc đến đời riêng, bây giờ thấy thơ – nhất là thơ của phần đời trước như kiểu “Lá thư gửi mẹ” – chẳng còn ý nghĩa gì nữa?

1.112 - Thái Tú Hạp
CÓ DUYÊN VỚI ĐẠO PHẬT VÀ… HOA KIỀU
Nhà thơ Việt kiều Mỹ sinh 1940 tại Hội An. Sống ở Mỹ (2012).

Thời trẻ làm thơ và hoạt động thanh niên Phật giáo, là một huynh trưởng Phật tử.
Bị gọi nhập ngũ, nhờ là nhà thơ nên ra trường sĩ quan Thủ Đức được chuyển qua ngành tâm lý chiến phục vụ Quân đoàn 1 tại Đà Nẵng.
Vì thế sau 30.4.75 mang lon đại úy đi cải tạo.
Nhưng nhờ có vợ là Hoa kiều nên năm 1978 xảy ra chiến tranh biên giới Việt – Trung, bản thân bị liệt vào gia đình “nạn kiều” người Hoa nên được vợ nộp đơn xin bảo lãnh cho về sớm để chuẩn bị cùng vợ bị trục xuất qua Trung Quốc.
Tuy nhiên do thủ tục rắc rối chưa đi liền được, quá sốt ruột nên năm 1980 cả 2 vợ chồng “đi trước một bước”… vượt biên qua Mỹ.
Trên xứ sở mới tận dụng mối quan hệ với Phật giáo và Hoa kiều, chồng làm dịch vụ du lịch Hong Kong, Đài Loan; vợ làm hiệu trưởng trường tiểu học cho con em Hoa kiều đặt trong một ngôi chùa Phật giáo. Ngoài ra, cả 2 vợ chồng cùng chung sức dịch thơ Đường, tiểu thuyết Quỳnh Dao qua tiếng Việt.
Riêng mình vẫn tiếp tục làm thơ hoài niệm quê hương và quá khứ, in 2 tập “Chim quyên lạc ngàn” 1982 và “Miền yêu dấu phương Đông” 1995.
Đặc biệt hàng năm đều đứng ra tổ chức in đặc san Quảng – Đà văn thơ hải ngoại nhớ về cố huơng.

1.113 - Thanh Hải Vô Thượng Sư
“PHÁP MÔN QUÁN ÂM”
Giáo chủ đạo mới Việt kiều Pháp tên thật Trịnh Đăng Huệ (hay Đặng Thị Trinh) sinh 1950 tại Quảng Ngãi. Mang quốc tịch Pháp, sống ở Mỹ (2012).
Năm 1969 đi du học Anh tốt nghiệp cử nhân văn chương.
Năm 1972 qua Pháp học triết học.
Năm 1974 qua Đức làm thông dịch viên, lấy chồng bác sĩ Đức. Bắt đầu quan tâm nghiên cứu, chuyên tu đạo Phật.
Năm 1980 ly dị chồng qua Ấn Độ xuất gia theo hệ phái Phật giáo - Lạt ma Tây Tạng.

Năm 1983 qua Đài Loan tiếp tục tu học Phật giáo theo một vị sư VN, bắt đầu lấy pháp danh Thanh Hải. Đến năm 1989 tại đây chính thức lập đạo mang tên là “Quán âm pháp môn” còn gọi nôm na “Đạo bà Thanh Hải”. Tự phong mình là giáo chủ “Minh sư”, là “Phật hiện tiền” giáng thế đi rao giảng hành đạo khắp thế gian.
Được một thời gian thì Đài Loan cấm truyền đạo nên chuyển qua hoạt động ở Mỹ.

“Đạo bà Thanh Hải” có nội dung vay mượn từ đạo Phật (chủ yếu là từ đạo Thiền – Yoga An Độ) qua đó biến chế theo hướng dẫn dụ quần chúng bình dân. Gồm các điều luật tôn trọng ngũ giới, yêu cầu đệ tử phải ăn chay trường và ngồi thiền ít nhất hai giờ rưỡi mỗi ngày, áp dụng “phương pháp tâm ấn” để ngộ đạo… Luật lệ đạo khá thoáng, nhận cả nam đệ tử.

Có tính thực dụng cao kết hợp truyền đạo với tiếp thị, kinh doanh (trang phục đạo giáo màu mè bắt mắt như… diễn viên cải lương, bản thân có nhan sắc từng xuất hiện cả trên sàn diễn… thời trang!). Trong đó có cả quan điểm chống Cộng, tự nhận là “chiến sĩ chống Cộng hòa thuận, an toàn; đánh Cộng sản nhưng không giết người mà chỉ hoán cải họ”!
Cả Phật giáo hải ngoại lẫn Phật giáo VN đều bài bác cho là “ngoại đạo”, “tà đạo” muợn màu Phật pháp để mê hoặc tầng lớp dân mê tín nhằm trục lợi.

Tại VN đã có lệnh cấm truyền bá đạo này, một số tín đồ theo đạo bị bắt giữ ở Đà Lạt năm 2010.

1.114 - Thanh Lan
HAI GIAI ĐOẠN, HAI BỜ ĐỐI NGHỊCH
Ca sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Phạm Thái Thanh Lan sinh 1948 tại Vinh – Nghệ An. Sống ở Mỹ (2012).
Một nghệ sĩ đa tài cả ca hát lẫn đóng kịch, đóng phim nổi tiếng ở miền Nam trước 1975. Nghệ sĩ có trình độ hiếm có (học trường Pháp, tốt nghiệp ĐH Văn khoa) nên hát được ca khúc ngoại tiếng Pháp – Anh, còn tự tay viết nhạc, soạn kịch bản kịch nói, phim, làm thơ…
Trước 75 bắt đầu nổi lên từ phong trào nhạc trẻ Sài Gòn, đóng kịch và phim nhiều (phim “Tiếng hát học trò”, “Lệ đá”, “Trường tôi”…). Từng qua biểu diễn thành công ở Nhật Bản.
Sau 1975 ở lại vẫn tham gia nhiều hoạt động nghệ thuật đều đặn, cả trình diễn sân khấu, thu đĩa lẫn đóng phim (phim “Ván bài lật ngửa”, “Vụ án hồ Con Rùa”, “Đằng sau một số phận”…).

Cuối năm 1993 được đi Mỹ dự buổi ra mắt phim của một Việt kiều đồng nghiệp cũ thì nhân đó bất ngờ xin “tị nạn” ở lại Mỹ luôn! Để lại con gái trong nước (còn chồng đã ly dị).
Nhưng qua Mỹ nhiều năm đầu gặp khó khăn trong hoạt động văn nghệ do bị các nhóm chống Cộng cực đoan hô hào tẩy chay, bị bêu rếu, bôi nhọ về đời tư vì tội từng tham gia cộng tác khá tích cực với Cộng sản ở VN.
Mãi đến 6 năm sau dần dần mới hòa nhập được với cộng đồng nghệ thuật hải ngoại để tiếp tục trình diễn, đóng kịch, phim và bây giờ còn tự tay viết kịch bản phim, dịch ca khúc Pháp ra tiếng Việt… Nhiều lần đi hát ở Châu Âu, Canada, Úc…
Năm 2002 in tuyển tập thơ của mình, cả thơ tiếng Việt và thơ tiếng Pháp – Anh.

Năm 2006 ra mắt hồi ký tiếng Anh. Qua đó tự chia đời hoạt động văn nghệ của mình ra 3 giai đoạn trước - sau 1975 và ở Mỹ, trong đó tâm sự hài lòng nhất là giai đoạn đầu tiên trong sự nghiệp mình, một sự nghiệp bao gồm hơn 500 bài hát ghi đĩa cả nhạc Việt lẫn nhạc Pháp, Anh, Ý, Nhật.

1.115 - Thanh Tuệ
40 NĂM NHÀ XUẤT BẢN AN TIÊM
Nhà xuất bản sách Việt kiều Pháp tên thật Trương Phúc sinh 1936 tại Quảng Nam – Mất 2004 ở Mỹ (68 tuổi).
Đại đức tu sĩ Phật giáo vào Sài Gòn thành lập Nxb An Tiêm trực thuộc Giáo hội Phật giáo VN năm 1965 với ý hướng in sách văn hóa, văn học nghệ thuật (cả sách dịch) của giới Phật tử (khác với Nxb Lá Bối cũng thuộc Giáo hội song chỉ chuyên in kinh kệ và sách nghiên cứu Phật học).

Sách An Tiêm dần được đánh giá cao vì nội dung sách đạt chất lượng cao, nghiêm túc từ những tác giả có trình độ, uy tín như đại thi sĩ Bùi Giáng, đại đức Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện, chị em Phùng Khánh – Phùng Thăng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), dịch giả Bửu Ý, nhạc Trịnh Công Sơn…
Có công phát hiện, giới thiệu in tác phẩm đầu tay của Phạm Công Thiện, Sao Trên Rừng… Sách trình bày, in ấn đẹp.
Đến 30.4.75 An Tiêm đương nhiên tự động đóng cửa còn bản thân bị kẹt lại ở Sài Gòn.
Một thời gian sau vượt biên qua định cư ở Pháp, cởi áo tu sĩ hoàn tục và tiếp tục gầy dựng lại hoạt động của nhà xuất bản tại Pháp. Tuy gặp nhiều khó khăn, trở ngại song tương đối vẫn duy trì được truyền thống một thời của nhà xuất bản, in sách của các tác giả phổ biến ở nước ngoài như Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Bùi Giáng, Quách Tấn, Nguyễn Đăng Thục, Võ Phiến, ni sư Trí Hải…
Trong một dịp quay về lại quê hương, có dặn các tác giả thân hữu nếu có viết gì chưa in được thì cứ để dành đó một ngày không xa mình sẽ in cho.
Nhưng lời hứa chưa kịp thực hiện thì năm 2004 qua Mỹ liên hệ đặt cơ sở xuất bản ở đây nhằm chuẩn bị kỷ niệm 40 năm ra đời An Tiêm 1965 – 2005 không may bất ngờ mắc bệnh nặng qua đời trên đất khách quê người.

1.116 - Thanh Thương Hoàng
“VIẾT BẰNG MÁU VÀ NƯỚC MẮT”
Nhà báo Việt kiều Mỹ tên thật Nguyễn Thanh Chiêu sinh 1930 tại Nghệ An. Sống ở Mỹ (2012).
Di cư vào Nam 1954 ban đầu viết truyện ngắn và phóng sự chịu ảnh hưởng khuynh hướng tả thực xã hội của Vũ Trọng Phụng.
Sau dần chuyển qua làm chủ báo rồi thành quan chức ngành báo chí, từng làm Chủ tịch Nghiệp đoàn ký giả VN có công thành lập Làng Báo chí tại Thủ Đức (Sài Gòn).
Bởi vậy sau Giải phóng phải đi cải tạo 10 năm.
Trở về Sài Gòn đến năm 1999 nhờ giới báo chí quốc tế vận động mới được cho xuất cảnh qua Mỹ.
Trên đất Mỹ, quay lại nghề báo (ra tạp chí Đời năm 2003) với ý hướng đấu tranh chống Cộng. Hô hào nhà báo hải ngoại lưu vong: “Người viết văn viết báo thời đại này phải đau nỗi đau của dân tộc, phải đau nỗi đau của đất nước. Phải dùng máu và nước mắt của mình để viết về những nỗi đau đời đó. Nếu không thì nên làm nghề khác kiếm ăn!”

Bản thân mình thực hiện đúng như vậy, quay lại viết truyện ngắn như thời mới vào nghề nhưng bây giờ mang đậm dấu ấn thời cuộc “mất nước” qua nhiều tập truyện được xuất bản như “Khoảnh khắc và thiên thu” năm 1994, “Những nỗi đau đời” năm 2001, “Ông tướng tỵ nạn” năm 2005…
Nhưng không gây được tiếng vang đáng kể một phần có lẽ do không còn phù hợp với yêu cầu mới của thời đại, cả nội dung lẫn văn phong.

1.117 - Thích Chân Hỷ
TỰ THIÊU Ở MỸ
Tu sĩ Phật giáo Việt kiều Mỹ tên thật Lê Văn Vệ sinh 1929 tại Thừa Thiên Huế -- Mất 2003 ở Mỹ (75 tuổi).
Nguyên sĩ quan chế độ cũ sau 75 phải đi học tập.
Ra trại đi H.O qua Mỹ năm 1991 với vợ và 9 người con.
Bất ngờ chỉ một năm sau xin thí phát quy y với Đại lão hòa thượng Thích Tâm Châu trước 75 là Viện trưởng Viện Hóa đạo Phật giáo VN thống nhất ở Sài Gòn. Được ban cho pháp danh Thích Chân Hỷ với ý nghĩa niềm tin tôn giáo đem lại niềm vui thực sự (chân hỷ).
Phục vụ đạo pháp tại chùa Liên Hoa ở bang Bắc Carolina.

Nhưng sau 11 năm sống dưới cửa Phật lại đưa đến kết quả tự nguyện tự thiêu tại chùa vào rạng sáng ngày 24.12.2003 – đúng dịp lễ Giáng sinh của giáo dân đạo Thiên Chúa! - để lại di nguyện đây là hành động đấu tranh “đòi tự do tôn giáo” cho người dân VN ở trong nước.

1.118 - Thuận Thị Trúc
NỮ FULRO 2
Giáo viên sinh khoảng 1951 tại Ninh Thuận. Sống ở Ninh Thuận(1982).

Người dân tộc Chăm trước 75 là văn công tham gia dạy văn nghệ tại Trung tâm Văn hóa Chàm ở Phan Rang do Pháp thành lập lấy danh nghĩa viện trợ văn hóa cho chế độ VNCH.
Lấy chồng là một nhân vật uy tín trong cộng đồng Chăm nên được Pháp đưa cả 2 vợ chồng qua Campuchia rồi qua Pháp dự định sử dụng trong mưu đồ chính trị lập “Vương quốc Chàm” riêng ở cả VN lẫn Campuchia.
Nhưng thời cuộc ở miền Nam xoay chuyển ngoài ý muốn khi Mỹ nhảy vào thay chân Pháp nên người chồng sống đời lưu vong kéo dài vô vọng trên đất Pháp thất vọng sinh bệnh qua đời.
Chồng chết còn lại một mình bơ vơ nuôi 2 con nên năm 1973 được Pháp đưa về nước trở lại làm việc cho Trung tâm Văn hóa Chàm ở Phan Rang.
Sau 30.4.1975 một lần nữa được Pháp móc nối định đưa qua Pháp chuẩn bị cho một mưu đồ chính trị khác áp đặt vào VN, tuy nhiên từ chối thẳng vì đã có kinh nghiệm làm kiểu “chốt thí chính trị” rồi. Thay vào đó chấp nhận xin chuyển ra làm giáo viên: “Nếu có ai bảo tôi đem một ngày yên tĩnh hiện nay đổi lấy cả một cuộc đời danh vọng giàu sang từng nếm trải rồi tôi cũng xin từ khước thôi…”

1.119 - Tiêu Văn Tấn
ĐẠP XE ĐI TÌM MỘ LIỆT SĨ NHIỀU NHẤT
Bộ đội về hưu sinh 1947 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2011).

Năm 1964 nhập ngũ vào chiến trường Quảng Trị.
Năm 1972 bị trọng thương được đưa về hậu phương miền Bắc điều trị. Ra viện chuyển về làm ở Tổng cục Hậu cần đến 1992 về hưu.

Bắt đầu từ năm 1996 một mình lên yên xe đạp đạp vào Quảng Bình tìm mộ đồng đội liệt sĩ một thời đánh Mỹ. Hành lý mang theo giống y như một bộ đội thời chiến chỉ khác là bây giờ thêm nhiều loại thuốc cảm cúm, đau bụng đau mắt… phòng ngừa bệnh già.
Tìm được mộ nào – hay thông tin về mộ - thì báo tin về quê cho gia đình liệt sĩ biết.

Cứ thế đều đặn mỗi năm đạp xe tiếp tục cuộc hành trình dài đăng đẳng đó ít nhất 2 tháng vì sức khỏe tuổi già không cho phép song nghỉ ngơi ở nhà vẫn cặm cụi tìm kiếm thêm thông tin, nghiên cứu hành trình sắp tới. Mỗi chuyến đi chọn một tỉnh thành từ miền Trung lên Tây Nguyên đến miền Nam, qua cả Campuchia và Lào.
Kết quả trong hơn 15 năm qua tổng cộng đã tìm thông tin giúp quy tập được 1.677 mộ liệt sĩ đa số quê miền Bắc trong đó có 250 mộ ở Lào và 160 mộ ở Campuchia.

Có lần đang trên đường giong ruỗi xe đạp thì bị tai biến phải vào nằm viện 2 tháng. Nhưng khỏe rồi lại cột ba lô sau xe lên đường: “Khi nào chân không còn tha được thân mới thôi đi”!

1.120 - Tiffany Nguyệt
LẶN LỘI TÌM CHA TRÊN ĐẤT MỸ
Việt kiều Mỹ. Sống ở Mỹ (2012).
Bị cha Mỹ bỏ rơi về Mỹ trước 1975, ở lại cùng mẹ, lớn lên lấy chồng có con.
Năm 1990 cùng mẹ và chồng con được đi định cư Mỹ theo diện con lai.
Trên quê cha nhờ nhiều tổ chức, bạn bè tìm kiếm tông tích cha ruột bằng mọi cách.

Năm 2011 tìm được một cựu binh Mỹ cũng đang nóng lòng đi tìm tin tức một đứa con còn trong bụng mẹ mà ông để lại VN năm 1970, cả hai ngờ ngợ nghĩ rằng có lẽ là cha con thật nên quyết định đi thử AND để xác minh (lúc này mẹ đã mất nên mất “nhân chứng” quan trọng nhất). Nhưng thật thất vọng kết quả không phải!
Dù vậy mình vẫn xin nhận ông là cha nuôi vì “”Cháu khát khao có một người cha hơn bao giờ hết”.

(Còn tiếp)

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

MƯA SÀI GÒN - LÊ NGỌC THUẬN

chừ em nhan sắc trùng tu
má môi như thể sương thu nhẹ nhàng
còn anh trở mộng đi hoang
trái tim hẹp lại thiên đàng trống không
thôi thì em cứ ôm chồng
riêng anh chuông mỏ sắc không chốn nầy
Sài Gòn Đông Bắc Nam Tây
thiếu thơ sóng vỗ ly đầy đá chanh
fê không, rượu không đoạn đành
anh như tượng đá bên thành cổ xưa

Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

TÙNG THIỆN VƯƠNG MIÊN THẨM

TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH NHÂN ĐẠO
TRONG THƠ TÙNG THIỆN VƯƠNG MIÊN THẨM
QUA “THƯƠNG SƠN THI TẬP”

NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾN

Trong vườn hoa đầy sắc hương của văn học Việt Nam thế kỷ XIX, Tùng Thiện vương Miên Thẩm, hoàng tử thứ mười của vua Minh Mạng, là một cây bút tài hoa, một nhà thơ nổi tiếng. Tùng Thiện vương đã để lại cho đời một khối lượng trước tác khá lớn, văn cũng như thơ. Về thơ, chỉ riêng Thương Sơn thi tập cũng đã gồm đến chín tập(1 ) (khi khắc in bằng bản gỗ năm 1872 được gộp lại còn tám tập và chia thành 54 quyển với trên dưới 2500 bài thơ). Đây là tập thơ làm nên danh vị “thất Thịnh Đường”( 2) của Vương. Thương Sơn thi tập là tâm huyết của cả cuộc đời Ông Hoàng Mười; là thao thức, dằn vặt trong sâu thẳm của tâm hồn một con người luôn luôn suy nghĩ về bản thân cũng như thế giới xung quanh mình: nhân dân, đất nước. Một cách khái quát, có thể nói Thương Sơn thi tập là tập thơ chữ Hán có qui mô vào loại lớn nhất trong thế kỷ XIX. Qua hệ thống cấu trúc nội dung cũng như qua hệ thống đề tài, chủ đề, hình tượng và thể thơ, tập thơ đã kế thừa và phát huy được những giá trị nội dung cùng nghệ thuật truyền thống của văn học trung đại. Trong một số mặt, Thương Sơn thi tập có thể đối diện với thơ Đường, khẳng định khả năng sử dụng chữ Hán trong nghệ thuật văn chương của người Việt không thua kém gì người Trung Quốc.Và xét trong chiều sâu của nội dung phản ánh; của tư tưởng, tình cảm sáng tác, Thương Sơn thi tập là tiếng nói thiết tha của Tùng Thiện Vương trước những vấn đề lớn của quê hương, đất nước và của bản thân nhà thơ. Bên cạnh mảng thơ bộc lộ xu hướng muốn sống cuộc sống ẩn sĩ, nhàn tản, tiêu sái, xa lánh lợi danh là mảng thơ thể hiện lòng ưu thời mẫn thế, lo lắng cho tiền đồ của đất nước, dân tộc. Bên cạnh mảng thơ thể hiện ý thức bảo vệ trật tự phong kiến, ý thức tôn quân, trung quân là mảng thơ phản ánh hiện thực đen tối của thời đại, đất nước trước và sau khi bị thực dân Pháp xâm lượctrong đó nổi bật mảng thơ phản ánh cuộc sống cùng khổ bi đát bởi tai trời, ách nước; bởi chế độ quân chủ phong kiến; bởi bọn cường hào, ác bá và bọn tham quan ô lại với nỗi bất bình, phẫn nộ mạnh mẽ, với tấm lòng thương xót, thông cảm sâu sắc...
Mặc dù xuất thân là một vị hoàng tử sống trong quyến quí cao sang nhưng Tùng Thiện vương lại chọn cho mình một cuộc sống bình dị, gần gũi với thiên nhiên và quần chúng lao động. Thấm nhuần ba nguồn tư tưởng Nho, Lão, Phật, mến mộ cách sống của các bậc hiền nhân cao sĩ trong rừng nho bể thánh, Vương thích cuộc sống vui thú với ruộng vườn; làm bạn với núi đồi khe suối, với sông dài trời rộng, với mây nước gió trăng để thưởng thức thú yên hà phong nguyệt. Do vậy Vương thường đi đây đi đó và càng đi Vương càng thấy nhiều sự việc mà một ông hoàng như Vương nếu không đi thì không thể nào hiểu biết và tưởng tượng ra được như ông từng tâm sự :
Sinh trưởng chốn quí sang
Đói cơm chưa từng biết
Mắt thấy thêm thê thiết …(*)
(Đêm lên đường ở Quảng Lộc)
Sinh trưởng phú quí trung,
Vị tằng giai cơ khách
Xúc mục bội thê thiết …
(Quảng Lộc dạ phát)
Mang tâm hồn Đỗ Phủ đời Đường, Tùng Thiện Vương đã phản ánh những điều “mắt thấy thêm thê thiết” ấy vào trong thơ mình và qua đó bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với nỗi khổ mà người dân phải chịu đựng.
Với tấm lòng nhân hậu, chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo, một lần, trong dịp thanh minh, đi tảo mộ, chứng kiến cảnh một người dân lặng lẽ ngồi khóc bên ngôi mộ mọc đầy cỏ dại nơi cồn hoang trong khe núi lúc màn đêm dần buông xuống, không ngăn được niềm xúc động, Vương đã ghi lại cảnh tảo mộ rất tội nghiệp của người dân ấy qua bài Tảo mộ hành (Bài hành tảo mộ) :
Cồn vắng chim bay, xuân, cỏ lục,
Mưa phùn rây, đêm tối người khóc
Một chén cơm tẻ, một bát canh …
… Giấy tiền lách tách, mây đen vần,
Nước mắt hòa vào khe nước gần.
Dòng khe lặng chảy trôi màu huyết,
Ngủ mãi trong mồ hồn chẳng biết.
Cạy rêu, nhổ cỏ, một mình về,
Ngoái đầu núi đêm lửa ma biếc. (*)
(Hoang khư điểu sí xuân thảo lục
Vi vũ như yên nhân dạ khốc
Nhất vu mạch phạn bán bôi canh …
… Chỉ tiền sách sách âm vân đê
Lệ lưu thiêm thủy chú tiền khê
Khê thủy vô thanh huyết lưu xích
Trủng trung trường miên bất tằng thức
Bát đài tiễn thảo hoàn độc qui
Hồi thủ sơn sơn dạ lân bích.)
Bài thơ tả rõ từng chi tiết mắt thấy tai nghe. Giữa cảnh mưa phùn, trong bóng hoàng hôn, một người ngồi khóc lặng lẽ bên một ngôi mộ nơi cồn hoang vắng vẻ với đồ cúng hầu như chẳng có gì : nửa bát canh, một chén cơm, một xếp giấy tiền ... Trước tình cảnh đó, nhà thơ tự hỏi không biết người chết ngủ trong mồ có buồn không. Cảnh cũng như người, thật buồn thảm, tội nghiệp! Và người chứng kiến cũng buồn không kém. Giọng điệu thơ, hình ảnh thơ gợi lên biết bao thương xót trong lòng người đọc thời ấy cũng như bây giờ.
Nhân dân lao động mặc dù đã phải làm lụng vất vả suốt ngày, suốt tháng, suốt năm nhưng cơm vẫn không đủ ăn, áo vẫn không đủ mặc. Hình ảnh người phu đẩy xe chở đất, đem bát mồ hôi đổi lấy bát cơm cũng đã được Vương ghi lại sinh động qua nét bút đầy trắc ẩn, xót thương trong bài Thổ xa dao (Bài ca xe đất) như sau :
Lạch cạch! Lạch cạch!
Đường đầy, xe chật.
Ngày hết, đêm tàn,
Tiếng xe không dứt ...
... Xe phóng nhanh, mồ hôi đẫm ướt,
Đêm mát còn hơn ngày nóng bức.
Ngẩng mặt nhìn trời xanh,
Máu đọng trong tròng mắt (*).
Cách kiệt ! Cách kiệt !
Mãn nhai xa triệt.
Nhật một, nguyệt một,
Xa thanh bất tuyệt…
… Xa như phong, hãn như tuyết,
Dạ lương do thắng trú chi nhiệt.
Ngưỡng nhất tác thương thiên,
Cao cao nhãn lưu huyết.
Và còn biết bao nhiêu người khác cũng khổ như thế từ người dân phu kéo gỗ trên rừng về xây lầu đài, cung điện phải chịu cảnh “Đá cào gai chích thân rách bươm,/ … Khí lạnh, hổ gầm, nước khe độc/ Ai chẳng có nhà, nhà thiếu ăn/ Khi đi tóc ngắn, về gầy rộc/ Năm ngoái hát hò, nay chỉ khóc – Hò dô ta” (Thạch tuần đãng thích sang mãn thân/ … Lam hàn hổ cao tuyền thủy độc/ Nhân thùy vô gia, gia bất túc/ Hành thời đoản phát, qui vô nhục/ Khứ niên thượng ca, kim thả khốc – Hô ta hồ) cho đến kẻ mò đãi vàng đầu sông ngọn suối “mình trần ngâm dưới nước/ rét cóng gần chết queo (Xích thân một tằng ba/ Đống tử cửu nại tô) để “chỉ mong đủ nộp thuế/ đâu dám mong phần dư” (Đản nguyện túc thường phú/ Yên cảm vọng kỳ dư – Kim hộ thán) nhưng “khốn khổ thay thuế thường khó chạy đủ, đành phải chịu huỷ tàn tấm thân hèn này; bẻ gãy cánh tay há không đau/ May ra được giảm nửa thuế – Lời than của gia đình mò đãi vàng” (Thường phú khổ nan túc/ Toại nhẫn tàn vi khu/ Ảo tý khởi phi thống/ Hạnh đắc giảm bán thu – Kim hộ thán) ... Tất cả những kiếp người ấy đều lâm vào cảnh “trống ruột, rau thay cơm/ cóng xương lửa thế áo – Nhà nghèo”(Hạo tràng sơ thế phạn/ Đống cốt hỏa vi y” – Bần gia). Tình cảnh đáng thương ấy đã đươc Tùng Thiện vương Miên Thẩm ghi lại rất chân thật và đầy xúc động trong thơ mình!
Bên cạnh nỗi khổ cực hàng ngày, nhân dân lao động, nhất là nông dân, còn phải thường xuyên lo lắng tai trời, ách nước. Hạn hán khiến người nông dân vất vả, khổ sở, lo đạp nước mong tưới cánh đồng cháy khô :
Rồng trốn năm nay mưa chẳng có
Nông dân đầm núi đều kêu khổ
Nước mắt dầm, thân đẫm mồ hôi
Tưới đất khô nguyện theo nước đổ … (*)
( Bài hành xe đạp nước)
(Kim niên quai long bất hành vũ
Sơn nông trạch nông các ngôn khổ
Lệ tuyền bị diện hãn mạn phu
Nguyện trục tào lưu chú tiêu thổ … )
(Thủy xa hành).
Đã thế mà lại còn bị cảnh“mới sáng sớm đã có thư lại đến thúc tô đòi tiền” (Tảo hữu thôi tô lại sách tiền – Thủy xa hành). Nhưng vẫn chưa hết khổ! Người nông dân còn phải khổ vì nạn sâu bọ phá hại mùa màng gây nên cảnh mất mùa, đói khổ. Bài “Miêu thương hành” (Bài hành lúa chết non) sau đây đã chỉ ra cảnh khổ của nông dân bị mất mùa vì thiên tai cùng niềm thương cảm của Vương đối với họ :
Ruộng cao hạn hán lúa khô quắt,
Ruộng thấp nước sâu không thấy đất ...
... Ruộng thấp hóa đầm sâu, vạn mẫu
Mạ xanh thước năm cấy không thấu
Ruộng cao đất nẻ hình mai rùa,
Suốt ngày trời thổi miết gió mùa.
Xoay trời chuyển đất ai làm được,
Ruộng thấp xin cho ruộng cao nước?(*)
(Cao điền miêu khô khổ vô vũ
Đê điền thủy thâm bất kiến thổ…
… Đê điền vạn mẫu vi trạch quốc
Xích ngũ thanh ương trừu bất đắc
Cao điền qui triệu tích công cung
Tận nhật xuy sát đông nam phong
Hồi thiên chuyển địa thục năng nhĩ
Đê điền khất dữ cao điền thủy.)
Éo le thay cho người nông dân! Làm ruộng cao thì khô hạn, làm ruộng thấp thì ngập úng. Sức người không điều chỉnh, chuyển hóa được sức trời vì phương tiện canh tác còn quá nghèo nàn lạc hậu đành phải đứng nhìn cây lúa chịu cảnh chết non để rồi phải chịu cảnh mất mùa, đói khổ. Đau xót biết bao!
Năm Tự Đức thứ 18 (1865 – năm Ất Sửu) do hậu quả thiên tai dẫn đến mất mùa suốt bốn tỉnh miền Trung từ Quảng Trị, Thừa Thiên đến Quảng Nam, Quảng Ngãi nên dân tình rất khốn khổ . Trước tình cảnh bi đát ấy, đa số người dân Quảng Nam, Quảng Ngãi phải vượt đèo Hải Vân, dắt díu nhau ra Kinh đô kiếm sống. Nhìn thấy cảnh những người dân xứ Quảng tha phương cầu thực, lang thang đầu cầu cuối chợ, rách rưới, khốn cùng, Vương xúc động viết bài Lưu dân thán (Lời than của dân lưu lạc) :
Thân một người nửa sinh nửa tử,
Đi chẳng được mà dừng cũng khổ ...
... Quê cũ vừa qua lụt, hạn nghiệt,
Khắp nơi lúa xanh thành lúa lép.
Kho lương chẳng đủ cho quân dùng,
Phát chẩn nhiều nhưng bụng vẫn xép.
Vượt ải lên kinh đã hai tuần,
Gầy đét thân, rách bươm áo quần.
Kẻ chết bỏ xác vùi bụi gần,
Người sống rên bò muốn liệt thân.
Thương thay dân bốn huyện Quảng Nam!...(*)
Đọc bài thơ ta thấy thương cảm đến nghẹn ngào trước tình cảnh đói khổ của đồng bào ta trong thiên tai và ta càng cảm động biết bao trước tấm lòng thương xót đầy nhân hậu của nhà thơ. Những lời than thở trong bài thơ không phải chỉ vì mối động tâm bất chợt mà xuất phát từ một cõi lòng chan chứa yêu thương, một tâm hồn giàu lòng nhân ái, giàu thiện cảm với người dân nghèo, cảm thông sâu sắc nỗi khổ của họ.
Nhưng nào đã hết! Hết khổ vì hạn hán nhân dân còn phải khổ vì lũ lụt :
Tháng chín chưa rơi sương,
Lũ nguồn mồng bảy trương.
Mây mờ che nắng sớm,
Nước lớn ngập đồng nương … (*)
(Nước lụt)
(Cửu thu sương vị lạc,
Thất nhật thuỷ sơ qui.
Cự tẩm liên bình dã,
Trùng vân cốt thự huy …)
(Thuỷ)
Thế rồi có biết bao người chết trôi theo dòng nước lũ, biết bao kẻ thiếu đói kêu van! Chứng kiến cảnh ấy lòng Vương không dằn được nỗi xót xa, ái ngại :
Trôi chết, thấy, sầu muộn,
Đói kêu, nghe, xót thương.
Sao đành no ấm hưởng,
Ái ngại lệ buồn vương. (*)
(Nước lụt)
(Kiến sầu vô chửng nịch,
Thân thính hữu đề ky.
Hà ý cam ôn bão,
Hàm tình song lệ huy.)
(Thuỷ)
Hà ý cam ôn bão/ Hàm tình song lệ huy (Sao đành no ấm hưởng/ Ái ngại lệ buồn vương). Biết bao thương xót trong hai dòng thơ ấy !
Bên cạnh lũ lụt, hạn hán lại còn thêm dịch bệnh, lính thú ! Chính những tai ách này đã đẩy người dân trong xã hội thời ấy lâm vào cảnh “hết chốn nương thân” :
… Nông ngư hết sống, khổ cùng cực.
Ruộng mùa lúa chín thu vào kho,
Nước cóng, khó ngâm mình bãi trúc,
Năm canh còi rúc canh phòng hổ,
Đuổi cá tinh sương chống vịt mổ,
Chai cứng chân tay mong đủ no,
Như nhau, đói, rét đều chết bỏ.
Năm nay ma dịch hành ba lần,
Tối còn, sớm chết, tội nông dân.
Trẻ lớn, trẻ bé sung tự vệ,
Chài vợ, chài chồng cùng xuống mộ …
… Sớm muộn sẽ thành lính thú hết,
Chài con về gói xương chài chết. (*)
(Hết chốn nương thân)
(… Vi nông vi ngư khốn sinh lý,
Đạo điền cốc thục tận thâu thương.
Trúc chữ ba hàn nan nhập thủy,
Truyền canh cảnh hổ xuy ngưu giác,
Xung hiểu khu ngư xanh áp chủy,
Thủ túc biền chi vị phục mưu,
Khổ cơ, khổ hàn đẳng chi tử.
Kim niên dịch quỷ tam dộ hành,
Dạ thoại triêu lai nông bất sinh.
Đại nhi tiểu nhi lệ hương dõng,
Ngư phụ ngư phu dữ xuyên trũng.
Tảo vãn tiễn cánh cùng nhung tốt,
Ngư nhi qui lai lõa ngư cốt.)
(Cùng cư)
Vì sao lại phải có cảnh «chài con về gói xương chài chết »? Lý do là :
Năm kia rợ Tây đánh Quảng Nam
Quan quân thua trận máu thành đầm …
… Năm nay dụng binh khắp nam bắc,
Vạn đội quân chia đi đánh giặc …(*)
(Bán áo giấy)
(Nẵng tuế tây di phạm Quảng Nam,
Quan quân chiến bại huyết thành đàm.
… Kim niên dụng binh biến nam bắc,
Cấm quân vạn đội phân bình tặc …)
(Mại chỉ y)
Lính thú chết có người tìm được xác nhưng đa số không tìm được. Sau tin báo của quan quân về cung vua, họ phải tìm mua áo giấy để cúng cầu hồn cho người thân của mình nhưng nào mua được vì ai cũng cần áo giấy :
Đêm qua hịch báo về cung vua,
Già nửa chết tìm không thấy xác.
Xóm đông nhà tây lệ thảm tuôn,
Nhiều năm khởi binh càng đáng buồn
Cơm tẻ canh cá cũng khó gặp,
Xứ nào ham tiền bán áo luôn ?…(*)
(Bán áo giấy)
(Tạc tiêu vũ hịch báo Cam Tuyền,
Cường bán tử vong thi bất đắc.
Đông lân tây xá khốc thanh hy,
Tần tuế quân hưng ích khả bi
Mạch phạn ngư canh diệc nan ngộ,
Hà xứ cầu tiền mại chỉ y ?…)
(Mại chỉ y)
Và đây là hình ảnh người thiếu phụ làm nghề vàng mã không chịu bán áo giấy vì đang cần áo để cúng cầu hồn người thân chết mất xác :
Một gian nhà nát người trú thân,
Quần áo rách bươm, đầu bù rối,
Mặt đầy bụi bẩn buồn thanh xuân.
Giấy mỏng tầng tầng trắng toát đất,
Cắt thành áo phơi trưa nắng gắt
Nghề này hỏi chị lãi bao nhiêu
Nói chẳng ra lời, tuôn nước mắt …
… Người thân tôi có trong số ấy,
Không bán, áo này cần dùng tới,
Cầu trời tạnh ráo áo mau khô,
Kịp đến tối chuyển về âm giới.(*)
(Bán áo giấy)
(Nhất gian phá ốc trung hữu nhân,
Tệ bố già hình loạn bồng thủ,
Châu nhan trần cấu sầu thanh xuân.
Bạc chỉ tằng tằng loát bạch thổ,
Tiễn tác minh y bộc đình ngọ
Vấn cừ nghiệp thử lợi kỷ hà,
Khẩu bất năng ngôn lệ như vũ …
… Thiếp gia thân đảng tại kỳ nội,
Sự vật sở tu bất kỳ mại.
Nguyện thiên tình tể y tảo can,
Cập đáo hoàng hôn tống minh giới.)
(Mại chỉ y)
Tình cảnh của người dân sao mà tội nghiệp! Phải có một tấm lòng đồng cảm sâu sắc với tình cảnh của nhân dân; phải có một tình cảm gắn bó, yêu thương da diết với đồng bào mình mới có được những dòng thơ đầy xúc động như thế!
Rồi Tùng Thiện Vương đã không ngần ngại chỉ thẳng vào nguyên nhân gây nên tình cảnh nghèo đói, cùng khổ của người dân đen trong xã hội đương thời. Đó là nạn hà hiếp, đục khoét của bọn cường hào, quan lại. Xuất phát từ tư tưởng ái dân, Vương càng lên án, kết tội những kẻ hại dân hại nước ấy. Mượn chuyện đôi chim gõ kiến ăn sâu mọt trên cây đại thụ, Vương gay gắt lên án những kẻ sâu dân, mọt nước trong xã hội đương thời qua bài Trác mộc điểu (Chim gõ kiến):
... Bay vào cây đại thụ,
Chim trống chọn được cành,
Biết bao nhiêu sâu bọ.
Miệng thèm mặc sức ăn,
Ngàn vạn, ăn vô số.
Ăn no liền bay đi,
Chim mái tiếp vào đó.
Sâu bọ biết đâu nhờ,
Một đời hết cứu độ.
Mọt cây tội đã đành,
Đâu bằng mọt nước nọ. (*)
(Hùng lai chi thượng nhiễu
Thê đắc hảo thụ chi
Trùng đố bất vi thiểu.
Sàm khẩu tứ sở dục
Bách vạn cung nhất bão
Bão lai khước dương khứ
Thư lai phục như cố.
Xi xi diệc hà liêu
Nhất sinh bất năng độ
Đố mộc tín hữu tội
Hà như bỉ bang đố.)
Càng nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống, Vương càng xót xa trước nỗi khổ của dân lành trong xã hội mình đang sống. Người dân không chỉ phải chịu sưu cao thuế nặng mà còn bị nhiều khoản đóng khác nữa chẳng hạn như lệ phải nộp “tiền trầu cau” mỗi khi “có việc” đến cửa quan. Đến cửa quan là phải nộp tiền hối lộ mà để hối lộ, người dân phải cầm cố cả nhà, bán cả vợ. Tình cảnh bi thương đó đã khiến Vương chua xót, bất bình. Qua bài “Phù lưu tiền hành” (Bài hành tiền trầu) Vương cho ta thấy nỗi khổ của người dân lành trước sự nhũng nhiễu của bọn quan lại:
Sáng đã dâng tiền trầu
Tối lại dâng tiền trầu
Quan lớn có xơi trầu
Dân mới khỏi oan sâu.
Quan lớn trong nhà tiền mục bở,
Dân đen bán nhà, bán cả vợ.
Thân này tuy còn, nhà đã tan,
May thoát gông nghĩa vợ chồng tàn.
Vợ bồng con nhìn chồng từ biệt,
Bên lộ nhai trầu nước mắt chan. (*)
(Triêu tiến phù lưu tiền
Mộ tiến phù lưu tiền
Đại nhân khiết phù lưu
Nãi tuyết tiểu nhân oan
Đại nhân đường trung tiền sách hủ(3)
Tiểu nhân mại gia hoàn mại phụ …
Thử nhân tuy tồn gia dĩ hưu
Gia tỏa hạnh thoát phụ nan lưu
Bảo nhi tạm lai dữ phu biệt
Lộ bàng đối khấp xan phù lưu.)
Người dân lành nghèo khổ đến hạng cùng đinh như người vác tre bán nuôi thân mỗi ngày cũng không khỏi bị hà hiếp, chèn ép, chiếm đoạt của cải … Xót xa trước cảnh ấy, Vương thác lời người bán tre nói lên nỗi oán hận của họ và rất đồng cảm với sự phản kháng trong nỗi đau bất lực của họ :
Ngày vác hai cây bán,
Tiền đủ nuôi bụng chán.
Trong cửa núi tre cao,
Ngoài cửa tiền chẳng trao.
Không nói xiết bao khổ,
Nói ra roi quất người lảnh đủ.
Ôi, than ôi!
Quay về chừ nước mắt chứa chan,
Từ rày về sau tre chẳng đẵn,
Đói nằm trong tre chết cũng đáng. (*)
(Bài hát bán tre)
(Nhật phụ lưỡng can trúc
Mại chi dĩ sung phúc
Môn nội trúc như sơn
Môn ngoại tiền bất hoàn
Bất ngôn nhất hà khổ
Ngôn chi trường tiên, thả tiên nhữ
Y, ta ta!
Qui khứ lai hề, lệ bàng đà
Tòng kim nhi hậu vật phạt trúc
Cơ ngọa trúc gian tử diệc túc.)
(Mại trúc dao)
Có thể nói, với những dòng thơ “tố cáo quan lại và cường hào đanh thép nhất trong thơ ông và có lẽ cả trong thơ ca thế kỷ XIX, Tùng Thiện vương quả là một nhà thơ hoàng tộc tiến bộ giữa thế kỷ XIX” (Lương An – Miên Thẩm, một nhà thơ hoàng tộc tiến bộ giữa thế kỷ XIX – Tạp chí văn học số 3 - 1981)
Chẳng những thương xót cho những cảnh đời khốn khổ của những người dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng trước nạn tham ô nhũng nhiễu của bọn quan lại, cường hào, Vương còn ngậm ngùi cho những cảnh đời phụ nữ bất hạnh trong xã hội thời ấy. Số phận đầu tiên mà Vương bày tỏ niềm xót thương đó là số phận của những người vợ có chồng phải đi chinh chiến nơi xa. Thông cảm sâu sắc nỗi buồn thương, mong nhớ của người cô phụ, Vương đã nhập thân thay lời người chinh phụ viết lên những dòng sầu thảm :
Từ lúc chàng đi khỏi,
Ngày đêm dáng tổn hao.
Nhớ chàng như lưới nhện,
Động đến ruột liền đau. (*)
(Từ lúc chàng ra đi)
(Tự quân chi xuất hỹ
Nhật dạ tổn dung quang
Tư quân nhược thù võng
Xúc xứ tiện hồi trường )
(Tự quân chi xuất hỹ)
Bằng những lời thơ súc tích, Vương đã nói lên được nỗi niềm thương nhớ cũng như dung nhan hao gầy, tiều tụy của người cô phụ. Trong bài thơ có những từ được tác giả sử dụng rất gợi tả và cũng rất biểu cảm. Từ “tổn” ở câu hai càng làm tăng vẻ tiều tụy của dung nhan người vợ; từ “thù võng” ở câu ba – tơ nhện giăng màn – một hình ảnh ẩn dụ cho tơ lòng của người cô phụ, gợi người đọc liên tưởng đến nỗi nhớ thương vương vấn không nguôi của người chinh phụ một mình một bóng chốn khuê phòng.
Cùng dòng cảm xúc trước nỗi buồn khổ của người cô phụ Vương còn có thêm bài Kim tỉnh oán (Nỗi oán nơi giếng vàng) :
Mỹ nhân soi bóng giếng vàng,
Thấy nơi đáy nước dung nhan phai tàn.
Phòng không chẳng dám về nằm,
Bóng ngô trăng chuyển sầu càng khó vơi. (*)
(Mỹ nhân chiếu kim tỉnh
Tỉnh để hoa nhan lãnh
Không phòng dạ bất qui
Nguyệt chuyển ngô đồng ảnh.)
Với những hình ảnh thơ giàu chất ước lệ của thơ Đường, bài thơ lột tả được nỗi buồn xót của người thiếu phụ phòng không gối chiếc khi mùa thu về, trăng thu lạnh, lá ngô đồng lung lay cùng bóng nguyệt, rụng dần theo gió heo may hiu hắt làm giá buốt trái tim cô đơn mòn mỏi đợi chờ ... Người đẹp soi mình trong bóng nước để rồi nhìn thấy nhan sắc của mình “càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha” (Tản Đà – Thề non nước) bởi vì chồng còn đang phải chinh chiến ở nơi xa ... Bài thơ gợi nhớ đến tâm trạng người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch tương truyền của Đoàn Thị Điểm :
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Ý tứ thơ, hình ảnh thơ, giọng điệu thơ của Đặng Trần Côn cũng như của Tùng Thiện vương, tất cả đầu toát lên niềm thương cảm sâu xa trước nỗi cô đơn, buồn nhớ của người cô phụ.
Bên cạnh niềm thương xót cho số phận những chinh phụ là nỗi xót thương cho kiếp đời của những cung phi trong chốn thâm cung. Có thể kể ra đây bài cung từ viết về nỗi sầu chiếc bóng của các cung phi ở chốn cung Tần:
Chọn múa mời ca những cửa ai,
Cuốn rèm Tương ngóng đợi xe ngài.
Sâu sâu thượng uyển trưa rồi tối,
Ba sáu xuân xanh hết một đời. (*)
(Bài cung từ nhà Tần)
(Trưng ca tuyển vũ á thùy gia,
Độc quyển Tương liêm vọng đế xa
Thượng uyển thâm thâm triêu phục vãn
Xuân phong tam thập lục niên hoa.)
(Tần cung từ)
Bằng nét bút gợi cảm, trữ tình đầy phong vị Đường thi của thể “cung từ”(1), bài thơ là niềm thương cảm đối với người cung nữ sống trong cung A Phòng trên đất Hàm Dương của vua Tần ngày trước, khắc khoải đợi chờ cho đến khi tuổi xuân đã tàn. Ba mươi sáu mùa xuân qua đi, nàng kiên nhẫn đợi chờ. Biết bao lần cuốn rèm ngóng đợi xe vua tới ban cho ân sủng nhưng hết “trưa rồi tối”, hy vọng đã trở thành tuyệt vọng vì xe của nhà vua vẫn mãi mãi không đoái hoài. Biết bao người đẹp chôn vùi nhan sắc trong chốn tiêu phòng, tắt lửa lòng giữa nửa chừng xuân. Bài thơ nghe như một tiếng thở dài sầu muộn khắc khoải không nguôi.
Thương cho số phận của những cung phi sống héo hắt trong cung cấm từ thời Tần xa xưa phải chăng Vương muốn mượn chuyện cũ để nói lên lòng thương xót của mình đối với các cung phi, mỹ nữ trong cung cấm triều đại đương thời?
Nhìn chung lại, qua thơ “ông hoàng Mười” ta thấy hiện lên một xã hội trong đó người dân phải chịu nhiều khổ đau không chỉ bởi tai trời ách nước; bởi bọn cường hào, ác bá; bởi bọn tham quan, ô lại mà còn bởi nạn tuyển mỹ nữ làm cung phi của chế độ xã hội phong kiến đương thời … Tất cả những sự việc, những tình cảnh, những nỗi niềm ấy đã được nhà thơ hoàng tộc ghi nhận và diễn tả với tất cả lòng ưu ái, cảm thông cùng với nỗi chua xót, bất bình của mình. Từ đó có thể nói Tùng Thiện vương đã thể hiện qua thơ mình khuynh hướng hiện thực rõ nét và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Xét trong hoàn cảnh xã hội quân chủ chuyên chế thời bấy giờ, cá nhân xuất thân là một hoàng tử rồi là một hoàng đệ, một hoàng thân mà đã dành một mảng không nhỏ trong tác phẩm của mình cho những vần thơ giàu tính hiện thực và tính nhân đạo như thế, quả thơ Tùng Thiện vương là một hiện tượng hiếm có trong văn học thời phong kiến rất đáng để cho chúng ta trân trọng và yêu mến.

NPBQ
--------------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích
(1 ) Đó là : Nhĩ hinh, Bắc hành, Ngộ ngôn, Hà thượng, Mô Trường, Bạch Bí, Minh Mạng cung từ, Bạch Bí tục, Mãi điền. Khi khắc in Minh Mạng cung từ được gộp chung vào Bạch Bí nên còn tám tập.
(2 ) Trích từ hai vế đối mà người đời đã vinh danh bốn nhân vật nổi tiếng về văn thơ thời ấy : “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”. (Siêu, Quát = Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát nổi tiếng về văn; Tùng, Tuy = Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương nổi tiếng về thơ thời ấy).
(3) Mượn ý từ câu thơ trong bài Thương trạch (Ngôi nhà đáng buồn) của Bạch Cư Dị ở đọan : Chủ nhân thử trung tọa / Thập tải vi đại quan / Trú hữu xú bại nhục / Khố hữu quán hủ tiền (Nhà chủ ngồi trong đó / Mười năm làm đại quan / Thịt thừa trong bếp thối / Tiền chứa ở kho tan).
(*) Bản dịch thơ của tác giả từ nguyên văn chữ Hán của thơ Tùng Thiện Vương.